Điện thoại thông minh, máy tính, các phương tiện truyền thông xã hội và Internet là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của trẻ em và thanh thiếu niên, kể cả ở trường học. Tuy nhiên, thực tế cách thức trẻ em và thanh thiếu niên ứng dụng các lợi ích của công nghệ trong học tập và giải trí đã làm giảm bớt những lo ngại về rủi ro khi đối tượng này dành quá nhiều thời gian trên màn hình hoặc hoạt động trực tuyến.
Định lí Sin là định lí xuất hiện nhiều trong toán học và có ứng dụng nhiều trong cuộc sống. Bài báo của Ngoc Giang Nguyen va Huyen Trang Pham xem xét sự kết hợp giữa phương pháp học tập theo thuyết kiến tạo và định lí Sin cũng như mối quan hệ giữa toán học với các lĩnh vực khác được thể hiện thông qua định lí này.
Với nghiên cứu “Difficulties in Teaching English for Specific Purposes: Empirical Study at Vietnam Universities”, Nguyễn Thị Tố Hoa và Phạm Thị Tuyết Mai đã thực hiện khảo sát giáo viên và sinh viên tại các trường đại học ở Hà Nội bằng cách liệt kê các yếu tố liên quan đến việc dạy tiếng Anh theo mục đích cụ thể. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh cho những mục đích cụ thể để người học có thể sử dụng tiếng Anh phục vụ cho công việc và cuộc.
Trong kỷ nguyên số đang chiếm lĩnh hầu hết các mặt của đời sống hiện đại, sự xuất hiện của các công nghệ số (hay các công nghệ thông tin và truyền thông - ICT) trong lớp học là cần thiết và là một thực tế không thể tránh khỏi.
Trong nhiều năm gần đây, Tạp chí Giáo dục (Tạp chí) của ngành đã có nhiều cống hiến trong định hướng tư tưởng, thông tin lí luận khoa học và thực tiễn giáo dục. Giá trị lớn nhất của tạp chí khoa học là sự chuẩn mực về học thuật, có nhiều đổi mới vượt bậc về nội dung và hình thức, ngày càng xứng đáng là người bạn đồng hành, tin cậy của những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và quản lí giáo dục.
Với mục đích giúp giáo viên nâng cao chất lượng giờ dạy trực tuyến, nghiên cứu của hai tác giả Carolina Lara Robles và Cynthia Enciso Centeno đề xuất một số giải pháp cải thiện giờ dạy và phát triển kĩ năng của giáo viên trong môi trường số.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Van Hung Pham và Thi Yen Le được thiết kế nhằm làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đầu tư công tại các trường đại học tự chủ của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công tại các trường đại học này ở Việt Nam như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng quy trình quản lý đầu tư công phù hợp với đặc điểm của trường đại học,...
Đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động kiểm tra, đánh giá trong giáo dục nói chung nhưng tác động của hai hình thức tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng vẫn chưa được chú ý trong việc học ngôn ngữ, đặc biệt là tác động của chúng đến khả năng tự điều chỉnh học tập, tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL). Bài báo của Tribhuwan Kumar cùng cộng sự tập trung kiểm tra tác động của các hoạt động tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng đối với việc tự điều chỉn
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu, tài liệu trước đó, Jinjin Wang đã phân tích lịch sử phát triển, đặc điểm và thực trạng quản lý giáo dục đại học tại Trung Quốc và phương Tây, xác định những ưu điểm và ý nghĩa tham khảo của giáo dục đại học phương Tây, và đưa ra những đề xuất mang tính xây dựng về việc bản địa hóa hệ thống giám sát giáo dục và lý thuyết quản trị của Trung Quốc thông qua bài viết mang tên “Research on higher education governance in China and the West".
Gần đây, tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp đã nổi lên như một phương pháp được sử dụng thường xuyên và trọng tâm trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như tâm lý học, sư phạm, tội phạm học, kinh doanh, sinh thái học và các lĩnh vực khoa học khác cũng như y học. Bài viết này nhằm mục đích giúp độc giả tìm hiểu về tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp là gì cũng như cách xem xét và đánh giá các bài báo đó, đặc biệt là trong lĩnh vực y học.
Tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương pháp quản trị đại học tiên tiến nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo. Nghiên cứu “Factors affecting the linkage between public universities, in the context of university autonomy: Case study in Vietnam” do Quang Bach Tran và cộng sự thực hiện nhằm mục đích xem xét mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến liên kết giữa các trường đại học công lập trong bối cảnh tự chủ đại học ở Việt Nam.
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, tự chủ trường đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết của Martin Hayden và Lam Quang Thiep cung cấp một cái nhìn tổng quan về đặc điểm nổi bật của hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam, đặc biệt là những thách thức mà các tổ chức, cá nhân phải đối mặt liên quan đến việc nhà nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học.
Trong ba thập kỷ qua đã có những thay đổi liên quan đến cơ cấu và cơ chế quản trị giáo dục đại học Việt Nam. Bài viết “Academic governance and leadership in Vietnam: Trends and challenges” của Jamil Salmi và Ly Thi Pham cung cấp cái nhìn tổng quan về quản trị và lãnh đạo học thuật tại Việt Nam ở cấp quốc gia và cấp trường, tập trung nhiều hơn vào khu vực công. Đồng thời phân tích những phát triển trong chính sách mới nhằm đạt được cải cách giáo dục đại học.
Một hệ thống giáo dục thành công dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó các nhà quản lý được coi là yếu tố chính, có thể tác động tới 80% kết quả trong nỗ lực nâng giáo dục lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, trong hành trình nâng tầm giáo dục, mọi nhà quản lý giáo dục đều sẽ gặp phải những thất bại và điều quan trọng cần làm đó là lập một kế hoạch nhằm ứng phó với chúng.
Nhà nước, nguồn tài trợ quan trọng nhất trong các hoạt động nghiên cứu khoa học mang tính rủi ro cao, cũng có các cơ chế riêng biệt nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư công. Mỗi một quốc gia có một cơ chế quản lý rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học khác nhau, trong đó cơ chế được sử dụng phổ biến nhất là đánh giá mức độ rủi ro trong quá trình phê duyệt nghiên cứu.
Tại Vương quốc Anh, nhiều giáo viên cho biết đã nghĩ đến chuyện nghỉ việc. Trước thực trạng đáng lo này, nghiên cứu của tác giả Shaun Thomspon chỉ ra những áp lực về sức khỏe tâm lý và phúc lợi mà giáo viên ở Vương quốc Anh phải đối mặt. Tình hình hiện tại dường như không có tác động tích cực nào đối với các trường học.
Bài viết của hai tác giả David Rettinger và Erica Price Burns nêu ra những điểm chính nhằm giúp các cơ sở giáo dục đại học tại Hoa Kỳ xem xét khi tạo ra môi trường khuyến khích sự liêm chính trong học tập giữa các sinh viên.
Nghiên cứu “Gender in mathematics: how gender role perception influences mathematical capability in junior high school” của hai tác giả Guihua Xie & Xinyu Liu thảo luận về sự khác biệt giới trong việc học toán ở cấp trung học cơ sở tại Trung Quốc và mối quan hệ giữa toán học với quan điểm giới tính.
Nghiên cứu của Tomasz Zając & cộng sự thực hiện nghiên cứu mang tên “Student mental health and dropout from higher education: an analysis of Australian administrative data” nhằm lấp đầy khoảng trống của các nghiên cứu đi trước, cung cấp toàn diện về mối liên hệ giữa tình trạng sức khỏe tinh thần của sinh viên và vấn nạn bỏ học đại học của sinh viên tại Úc.
Phương pháp sư phạm lớp học đảo ngược đã trở thành một cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi trong phương pháp dạy học kết hợp (blended learning). Nghiên cứu của Oscar Ölmefors và Jan Scheffel có mục tiêu chính là tìm hiểu quan điểm của học sinh về lớp học đảo ngược, vốn đang được áp dụng như một phương pháp sư phạm ở một trường trung học phổ thông Thụy Điển.