Bài viết của hai tác giả Janine Huisman và Jeroen Smits mang đến góc nhìn chuyên sâu về thời lượng và chất lượng của quá trình bình duyệt bài báo khoa học, thông qua phân tích dữ liệu từ 3500 trường hợp bình duyệt do tác giả của các bài báo khoa học báo cáo lại trên nền tảng website SciRev.sc.
Những con số và các vấn đề liên quan tới toán học nói chung là nỗi ám ảnh phổ biến với nhân loại. Tại Úc, khi kỳ thi NAPLAN diễn ra, nỗi lo âu về toán học (math anxiety) ở một nhóm lớn học sinh trở nên nghiêm trọng.
Học giả Kadir Bahar cảnh báo rằng nữ giới sẽ tiếp tục bị đánh giá thấp hơn nam giới trong các ngành nghề STEM nếu như các nhà giáo dục không tập trung vào việc giúp các nữ sinh học tập hiệu quả trong các lớp toán nâng cao ở trường trung học.
Khi thước đo năng lực trong giáo dục chú trọng tới điểm số đã tạo nên những áp lực vô hình đè nặng lên quá trình học tập lẫn tâm lý học sinh. Do đó, nhóm tác giả Nathan Rickey, Andrew Coombs, Christopher DeLuca và Danielle LaPointe-McEwan (Canada) tập trung chỉ ra những tác động tiêu cực của ám ảnh điểm số đối với sức khỏe, việc học tập và giáo dục; đồng thời, đưa ra một số khuyến nghị nhằm cải thiện thực trạng,
Trong bối cảnh chi phí đại học ngày càng tăng cùng với sự do dự của sinh viên khi tham gia chương trình tín dụng sinh viên hiện tại, chương trình tín dụng sinh viên trở nên cần thiết để đảm bảo rằng tất cả sinh viên có khả năng tiếp cận giáo dục đại học.
Kiểm tra đánh giá (assessment) là một vấn đề nóng trong bối cảnh giáo dục ngày nay, đặc biệt là khi con người đặt từ “chuẩn hóa” lên trước. Kiểm tra đánh giá quá trình người học có ý nghĩa chẩn đoán điểm mạnh, điểm tồn tại của người học để người dạy có hoạt động giáo dục, dạy học phù hợp. Nhưng cũng có những loại kiểm tra đánh giá khác trong giáo dục nhằm cung cấp thông tin và hiểu biết có ý nghĩa cho các mục đích cụ thể trong suốt hành trình dạy và học.
Bài viết của nhóm tác giả Anh Nguyen Quoc, Minh Thang Le và Hiep Hung Pham tìm hiểu về mối quan hệ giữa “nhiệm vụ thứ ba” của các nhà khoa học (bao gồm sự đóng góp học thuật, thương mại hoá khoa học và quan hệ công chúng) và hai nhiệm vụ truyền thống của họ (giảng dạy và nghiên cứu) trong bối cảnh Việt Nam - một quốc gia thuộc nhóm đang phát triển.
Tự chủ đại học là một trong những chính sách đại học quan trọng trong đổi mới giáo dục đại học tại các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia có một chính sách riêng về tự chủ đại học dựa trên các đặc điểm riêng. Dựa trên những kinh nghiệm đó, Việt Nam có thể rút ra các bài học để chính sách về tự chủ đại học hiệu quả hơn.
Nhiều biến đổi và biến cố diễn ra trên phạm vi toàn cầu bao gồm cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi căn bản cuộc sống của chúng ta và thách thức các quốc gia suy nghĩ lại về các mô hình dạy - học cũng như sinh sống, làm việc trong bối cảnh mới.
Trước những nhận định về khả năng gần như vô hạn của ChatGPT, tác giả Leanne Ramer (giảng viên Đại học Simon Fraser, Canada) đã đưa ra những phản hồi khuyến khích giáo dục đại học có diễn ngôn cởi mở, liên ngành và hỗ trợ nghiên cứu tìm hiểu AI từ nhiều góc độ.
Trong khi các cơ sở giáo dục đại học phải đối mặt với sự sụt giảm nguồn lực đầu tư từ chính phủ và hoạt động thị trường hóa giáo dục đại học, tự chủ đại học trở thành một công cụ hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng quản trị của các cơ sở giáo dục đại học.
Bài viết “Parents, quality, and school choice: why parents in Nairobi choose low-cost private schools over public schools in Kenya’s free primary education era” của nhóm tác giả Stephanie Simmons Zuilkowski và cộng sự (Mỹ) tập trung nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn các trường tiểu học tư thục có học phí thấp của nhiều phụ huynh Kenya thay vì cho con mình theo học các trường công không mất phí.
Được ra mắt lần đầu tiên vào năm 2022, bảng xếp hạng này nêu bật chất lượng giảng dạy và học tập, khả năng tuyển dụng và nghiên cứu, cũng như mức độ tham gia vào các hoạt động cộng đồng, quốc tế hóa và danh tiếng của các tổ chức giáo dục đại học tư thục.
Nối tiếp phần trước, Tạp chí Giáo dục giới thiệu tới bạn đọc phần hai bài viết của nhóm tác giả M. Annersten và R. Wredling hướng dẫn cách viết các nội dung thường gặp của một bản đề cương nghiên cứu tiêu chuẩn.
Đề cương nghiên cứu là một trong những văn bản không thể thiếu khi một (hoặc một nhóm) nhà khoa học trình bày ý tưởng nghiên cứu với cơ quan chủ quản hoặc tiến hành xin tài trợ từ các hiệp hội, quỹ, v.v… Bài viết của nhóm tác giả Annersten và Wredling (2006) hướng dẫn cách viết các nội dung thường gặp của một bản đề cương nghiên cứu tiêu chuẩn.
Mặc dù việc mở rộng khả năng tiếp cận bình đẳng với giáo dục đại học và sau đại học vẫn luôn là một trong những mục tiêu trọng tâm của chính sách công trong nhiều thập kỷ, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về tính hiệu quả của những chính sách nhằm thúc đẩy vấn đề trên. Trong bài báo này, Mattia Cattaneo và cộng sự sẽ trình bày một số hàm ý chính sách đáng chú ý liên quan đến cung, cầu, học phí và chính sách đầu tư cho cơ sở giáo dục đại học (ở Châu Âu).
Nghiên cứu của hai tác giả Phạm Vũ Thắng (Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) và Trần Bình Nam (Đại học New South Wales, Úc) tập trung vào yếu tố tài chính của HEP2 với mục đích chính là xác định mức độ chi phí đơn vị (CPĐV, tức là chi phí đào tạo trung bình cho mỗi sinh viên) của các trường đại học công lập ở Việt Nam vào năm 2010.
Nghiên cứu với chủ đề “Teachers’ competencies in education for sustainable development in the context of Vietnam” của nhóm tác giả Nguyen Phuong Thao và cộng sự (2022) được công bố trên tạp chí “International Journal of Sustainability in Higher Education”, Q1 Scopus về lĩnh vực Giáo dục. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đề xuất các năng lực chuyên môn cần thiết đối với giáo viên để thực hiện tốt chính sách Giáo dục vì sự phát triển bền vững (ESD) trong bối cảnh Việt Nam.
Các trường đại học sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ trong tương lai. Cụ thể, các trường đại học giàu truyền thống được biết đến từ trước đến nay đang trở thành những tập đoàn kinh doanh được quản lý quá mức theo kiểu doanh nghiệp, và mất đi khả năng đáp ứng các nhu cầu của xã hội, quốc gia và thế giới.
Trong bối cảnh ngày càng có nhiều sinh viên truy cập Internet thông qua các thiết bị di động, các trường đại học đang có xu hướng chấp nhận và triển khai các công nghệ truyền thông, liên lạc mới trong dạy học, góp phần gia tăng tốc độ chuyển đổi số. Nghiên cứu của nhóm tác giả Helena Santos và cộng sự phân tích mục đích và kì vọng của sinh viên khi sử dụng công nghệ trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.