Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã quốc tế hóa giáo dục đại học bằng việc áp dụng chương trình học từ các tổ chức nước ngoài và giảng dạy bằng tiếng Anh (EMI). Chính sách này đã mang lại nhiều đổi mới tích cực trong lĩnh vực giáo dục nhưng vẫn còn tồn tại số thách thức.
GS.TS Nguyễn Quý Thanh nhấn mạnh sự cần thiết của việc chuyển đổi từ “chứng chỉ” sang “giấy phép hành nghề” để đảm bảo tính pháp lý và toàn diện hơn. Đồng thời đề xuất bổ sung tiêu chí pháp lý và tâm lý để bảo vệ cả giáo viên và học sinh, đặc biệt chú trọng đến giáo dục mầm non và tiểu học.
Ngày 15/7, Hệ thống trích dẫn Đông Nam Á (ASEAN Citation Index - ACI) đã thông báo kết quả xét duyệt các tạp chí khoa học được chấp nhận vào năm 2024. Vietnam Journal of Education (Tạp chí Giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo phiên bản tiếng Anh) là một trong 11 tạp chí khoa học của Việt Nam chính thức được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu ACI năm nay.
Hội thảo khoa học Quốc gia về chủ đề “Nghiên cứu về dạy và học, quản lí giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi số: Chủ đề và phương pháp” do Tạp chí Giáo dục và Trường Đại học Đà Lạt đồng tổ chức vào ngày 26-27/7/2024 tại Trường Đại học Đà Lạt đã thu hút sự quan tâm, đăng kí tham dự của gần 100 đại biểu và hơn 100 bài báo khoa học, tham luận gửi về.
Trong những năm gần đây, các Khóa học trực tuyến mở đại chúng (MOOCs) và Hệ thống quản lý học tập (LMS) đã làm thay đổi cục diện giáo dục trực tuyến, mỗi khóa học đều đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trải nghiệm học tập trên toàn cầu.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, nhiều mô hình học tập mới đã ra đời, phát triển mạnh và đem lại sự đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đại học, từ mô hình trường đến mô hình lớp học và hiệu quả đào tạo. Một số ưu điểm có thể chỉ ra là: rút ngắn thời gian, chi phí đào tạo; cá nhân hoá việc học; cung cấp cơ hội và thực hiện học tập suốt đời.
Các nghiên cứu về nhận thức và hiểu biết của học sinh về công nghệ hiện nay đã chỉ ra rằng học sinh vẫn chưa được trang bị đủ kiến thức về công nghệ, do đó, nghiên cứu này tìm hiểu về cách thức mở rộng hiểu biết của học sinh về cách công nghệ được thể hiện trong các hoạt động trong lớp.
Bài viết này báo cáo về một nghiên cứu thí điểm gói bài học mới trong các lớp học khoa học để giới thiệu cho học sinh ý tưởng về AI. Ba giáo viên khoa học từ các trường khác nhau đã thí điểm gói bài học với các nhóm nhỏ học sinh và đưa ra phản hồi về tài liệu cũng như cách thực hiện.
Trí tuệ nhân tạo mang lại cả cơ hội và thách thức cho giáo dục đại học. Các tài liệu hiện có chưa nghiên cứu kỹ lưỡng xem công nghệ này sẽ tác động như thế nào đến việc đánh giá trong giáo dục đại học. Đánh giá phạm vi này sử dụng cách tiếp cận có tư duy tiến bộ để điều tra cách trí tuệ nhân tạo tổng hợp biến đổi việc đánh giá trong giáo dục đại học.
Bài viết này trình bày một mô hình phát triển chuyên môn cho giáo dục nghệ thuật mầm non. Các nguyên tắc chung làm nền tảng cho giáo dục mầm non và giáo dục nghệ thuật bao gồm việc thừa nhận vai trò quan trọng của những trải nghiệm và mối quan hệ ban đầu cũng như các cơ hội học tập có chất lượng là nền tảng cho sự phát triển tích cực của trẻ.
Nghiên cứu của nhóm tác giả tập trung vào việc trẻ em tham gia vào các phòng mẫu giáo và các nhóm vui chơi tương ứng. Nhóm tác giả đã nghiên cứu quá trình thuộc về mặt quyền lực (power) được sử dụng bởi các cá nhân. Nhận thức được cách thức hoạt động của quyền lực ở trẻ em là điều quan trọng để hiểu và đảm bảo sự thuộc về của mọi trẻ trong nhóm.
Nghiên cứu này khám phá việc hỗ trợ quyền tự chủ (learner autonomy) và ưu tiên học tập (learning preference) trong giáo dục đại học, giới thiệu một môi trường học tập linh hoạt và cá nhân hóa với công nghệ hậu đại dịch. Từ đó, hỗ trợ thúc đẩy tính tự chủ của người học trong giáo dục đại học
Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu thiết kế một gia sư kỹ thuật số dựa trên ngôn ngữ tự nhiên đóng vai trò trung gian giữa sinh viên, trợ giảng và giảng viên. Mục đích của gia sư kỹ thuật số là hỗ trợ người học tự động hóa trong suốt thời gian giảng bài bằng các cuộc trò chuyện dựa trên ngôn ngữ tự nhiên.
Nghiên cứu được trình bày nhằm mục đích tìm hiểu về ảnh hưởng của các hoạt động âm nhạc và vận động tích hợp, được tổ chức theo phương pháp sư phạm Montessori, đối với sự phát triển khả năng âm nhạc của trẻ mẫu giáo ở trường mẫu giáo Montessori.
Nghiên cứu của tác giả Maryam Bourbour và cộng sự tìm hiểu cách thức mà một thiết bị công nghệ số cụ thể - bảng tương tác (IWB) - hỗ trợ công việc giảng dạy của giáo viên mầm non. Thông qua các nghiên cứu thực địa trong các năm 2017-2018 với 5 giáo viên mầm non và 22 học sinh độ tuổi 4-6 tại Thuỵ Điển, kết quả thu được đã làm sáng tỏ một số vấn đề trong mối quan hệ giữa sự hỗ trợ của công nghệ với hoạt động sư phạm của giáo viên.
Nghiên cứu thực nghiệm này điều tra xem động lực nội tại, năng lực học tập, hành vi tự điều chỉnh trong học tập và sự hài lòng với chương trình cấp bằng đã chọn ảnh hưởng như thế nào đến việc điều chỉnh học tập ở trường đại học cũng như cách các biến số và sự điều chỉnh này ảnh hưởng đến ba chỉ số quan trọng về thành công của sinh viên.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng đến từ trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội về đề tài “Learning to teach across the boundary: A cultural historical activity theory perspective on a university – school partnership in Vietnam” được công bố trên tạp chí Teaching and Teacher Education. Đây là tạp chí Q1 (Citescore: 5.1) về lĩnh vực Giáo dục Khoa học xã hội.
Trong ngành Logistics, quá trình chuyển đổi kỹ thuật số có thể mang lại những lợi ích đáng kể về mặt xã hội. Việc áp dụng rộng rãi các công nghệ kỹ thuật số trong ngành hậu cần là rất quan trọng trong lĩnh vực này. Nghiên cứu này giúp các tổ chức học thuật xác định các yếu tố cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng chương trình giảng dạy hậu cần thân thiện với công nghệ.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích đánh giá động lực học tập và thái độ của sinh viên Nhật Bản đối với việc học tiếng Anh. Nghiên cứu này cũng dự đoán thái độ cá nhân của sinh viên Nhật Bản đối với động lực học tập của họ. Những phát hiện này sẽ hỗ trợ mở rộng kiến thức của học sinh về các yếu tố dự đoán động lực học tập trong môi trường giáo dục ngôn ngữ.
Rối loạn lo âu là một trong những dạng rối loạn sức khỏe tâm thần phổ biến nhất ở thời thơ ấu. Nghiên cứu này điều tra mối quan hệ giữa khả năng hiểu biết về lo âu của các giáo viên tiểu học, các triệu chứng lo âu của trẻ em mà các giáo viên gặp phải và cách giáo viên điều chỉnh sự lo âu của các em.