Nuôi dưỡng sự đa dạng: một thập kỷ chính sách giáo dục dân tộc của Việt Nam

Việt Nam, một quốc gia nổi tiếng với nền văn hóa phong phú và đa dạng sắc tộc, đã kiên định cam kết thực hiện các chính sách giáo dục hòa nhập và công bằng. Trong thập kỷ qua, chính phủ đã nỗ lực thu hẹp sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số, nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục trong việc thúc đẩy sự hòa hợp xã hội và phát triển bền vững.

Việt Nam là quê hương của 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có ngôn ngữ, phong tục và truyền thống riêng biệt. Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và tôn vinh sự đa dạng này, chính phủ đã tìm cách tạo ra một môi trường giáo dục đáp ứng nhu cầu cụ thể và bối cảnh văn hóa của học sinh dân tộc thiểu số. Các chính sách không chỉ nhằm mục đích cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục mà còn nhằm nâng cao chất lượng và sự phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, của mỗi vùng, miền, địa phương.

Một trong những mục tiêu trọng tâm của chính sách giáo dục dân tộc của Việt Nam là mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số. Những nỗ lực bao gồm việc xây dựng trường học ở vùng sâu vùng xa, cung cấp học bổng và phát triển các mô hình học tập linh hoạt để phù hợp với lối sống du mục của một số cộng đồng dân tộc. Mục tiêu là đảm bảo không có trẻ em nào bị bỏ lại phía sau do rào cản về địa lý hoặc văn hóa. Các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí được kiên trì thực hiện trong nhiều năm, đem lại diện mạo mới cho chất lượng giáo dục, đặc biệt là các khu vực khó khăn, có đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống.

Để giải quyết vấn đề đa dạng ngôn ngữ giữa các nhóm dân tộc thiểu số, Việt Nam đã thúc đẩy các chương trình giáo dục song ngữ. Nhận thức được rằng nhiều trẻ em dân tộc thiểu số nói các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Việt là ngôn ngữ đầu tiên của các em, giáo dục song ngữ nhằm mục đích tạo điều kiện chuyển tiếp suôn sẻ hơn sang chương trình giảng dạy quốc gia, đồng thời bảo tồn và trân trọng ngôn ngữ và văn hóa bản địa. Giáo viên thường được đào tạo để giảng dạy bằng cả tiếng Việt và ngôn ngữ địa phương mà học sinh sử dụng. Do đó, sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số cũng đã và đang được nghiên cứu, xuất bản, đưa vào nhà trường.

Một khía cạnh quan trọng trong chính sách giáo dục dân tộc của Việt Nam là phát triển một chương trình giảng dạy phản ánh di sản văn hóa của các dân tộc đa dạng. Điều này bao gồm việc kết hợp lịch sử địa phương, kiến thức truyền thống và thực hành văn hóa vào chương trình giảng dạy tiêu chuẩn. Cách tiếp cận như vậy không chỉ đảm bảo tính nhạy cảm về văn hóa của giáo dục mà còn nuôi dưỡng cảm giác tự hào và thuộc về của học sinh dân tộc thiểu số. Việc thực hiện này trong ngành giáo dục có thể thông qua chương trình giáo dục địa phương, thông qua các hoạt động trải nghiệm, giáo dục trải nghiệm, trong các môn học như khoa học xã hội.

Nhận thức được tầm quan trọng của sự tham gia của cộng đồng trong việc xây dựng chính sách giáo dục hiệu quả, ngành giáo dục đã tích cực khuyến khích sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số trong việc lập kế hoạch và thực hiện các sáng kiến giáo dục. Lãnh đạo địa phương, phụ huynh và thành viên cộng đồng thường tham gia vào quá trình ra quyết định, đảm bảo rằng các chính sách đáp ứng nhu cầu riêng của từng cộng đồng.

Mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và mạnh mẽ trong việc thúc đẩy giáo dục dân tộc nhưng vẫn còn tồn tại những thách thức. Sự cách biệt về mặt địa lý, cơ sở hạ tầng không đầy đủ và các yếu tố kinh tế xã hội tiếp tục góp phần tạo ra sự chênh lệch về giáo dục giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số. Chất lượng giáo dục, đào tạo giáo viên và sự sẵn có của các nguồn lực giáo dục ở vùng sâu vùng xa vẫn là những lĩnh vực cần được quan tâm thường xuyên. Chính sách đối với giáo viên luôn được quan tâm nhưng chưa thật sự thu hút được nhiều giáo viên cho các khu vực khó khăn, khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù đã có tiến bộ trong việc cải thiện tỷ lệ nhập học và tiếp cận giáo dục, việc đo lường tác động định tính đến kết quả học tập, tỷ lệ duy trì và cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên tốt nghiệp là người dân tộc thiểu số vẫn là một thách thức đang diễn ra.

Cô Hoàng Thị Vân - giáo viên Trường Mầm non Nấm Dẩn (Hà Giang). Ảnh: Ngô Chuyên.

Sự phát triển của các chính sách giáo dục dân tộc ở Việt Nam được dẫn dắt bởi cam kết cải tiến liên tục. Để phát huy những thành tựu của thập kỷ qua và giải quyết những thách thức dai dẳng, những khuyến nghị sau đây có thể được xem xét:

Đầu tư bền vững: Đảm bảo đầu tư nhất quán và bền vững vào cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo viên và tài nguyên giáo dục ở vùng sâu vùng xa.

Trao quyền cho cộng đồng: Tiếp tục trao quyền cho cộng đồng dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định và thiết kế chương trình để đảm bảo các chính sách phù hợp về mặt văn hóa.

Nghiên cứu và đánh giá: Tiến hành các nghiên cứu đánh giá và nghiên cứu toàn diện để đo lường tác động lâu dài của các chính sách đối với kết quả giáo dục, tỷ lệ việc làm và phát triển cộng đồng.

Đào tạo và tuyển dụng giáo viên: Ưu tiên các chương trình đào tạo giáo viên liên tục để trang bị cho các nhà giáo dục những kỹ năng và năng lực văn hóa cần thiết để giảng dạy các nhóm học sinh đa dạng một cách hiệu quả. Đồng thời với đó là chính sách đối với nhà giáo, hi vọng có sự đồng bộ, tập trung vào khả năng thu hút, sử dụng, luân chuyển và cơ chế lương thuận lợi hơn.

Hợp tác và chia sẻ kiến thức: Tạo điều kiện hợp tác và chia sẻ kiến thức giữa các khu vực và cộng đồng để xác định các phương pháp hay nhất và giải pháp đổi mới. Trong bối cảnh công nghệ phát triển, cộng đồng giáo viên học tập với sự hỗ trợ của internet, công nghệ thông tin là cần thiết để giúp giáo viên tiếp cận thông tin, thu hẹp khoảng cách thông tin, rèn luyện và phát triển năng lực nghề nghiệp.

Tóm lại, hành trình xây dựng và thực hiện các chính sách giáo dục dân tộc của Việt Nam trong thập kỷ qua phản ánh cam kết về tính hòa nhập, đa dạng văn hóa và trao quyền cho cộng đồng dân tộc thiểu số. Mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng chú ý nhưng vẫn tồn tại những thách thức và cần có những nỗ lực liên tục để đảm bảo rằng mọi trẻ em, bất kể nguồn gốc dân tộc, đều được tiếp cận nền giáo dục có chất lượng và ngày càng chất lượng hơn. Bằng cách phát huy những thành công trong quá khứ và giải quyết những thách thức mới nổi, Việt Nam có thể tiếp tục tạo ra một môi trường giáo dục tôn vinh sự đa dạng và góp phần vào sự phát triển toàn diện.

Minh Anh tổng hợp 

Tài liệu tham khảo 

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Quyết định Ban hành Kế hoạch triển khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Quyết định số 1657/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045

Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 1657/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Đào Nguyên Phúc (2021). Hoàn thiện chính sách giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. https://tuyengiao.vn/khoa-giao/giao-duc/hoan-thien-chinh-sach-giao-duc-cho-dong-bao-dan-toc-thieu-so-mien-nui-133356

Tuyên dương nhà giáo, cán bộ quản lý tiêu biểu năm 2023. https://giaoducthoidai.vn/tuyen-duong-nha-giao-can-bo-quan-ly-tieu-bieu-nam-2023-post661663.html

Bạn đang đọc bài viết Nuôi dưỡng sự đa dạng: một thập kỷ chính sách giáo dục dân tộc của Việt Nam tại chuyên mục Khoa học giáo dục và xã hội của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn