Giáo dục Việt Nam sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

Bài viết của TS. Lê Thị Mai Hoa, Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương, phân tích, bình luận về những thành tựu và thách thức của giáo dục Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

Tác giả: Lê Thị Mai Hoa, Ban Tuyên giáo Trung ương

Tạp chí giáo dục trân trọng giới thiệu bài viết của TS. Lê Thị Mai Hoa, Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương, phân tích, bình luận về những thành tựu và thách thức của giáo dục Việt Nam, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định quan điểm: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”; và “Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Nghị quyết xác định tư tưởng chỉ đạo, định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá: “Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị vǎn hoá của dân tộc, có nǎng lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại; phát huy tiềm nǎng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật ; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời dặn của Bác Hồ”; “Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục”;. Mọi người chǎm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp chí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng công đồng, từng tập thể”… 

Như vậy, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”.

Để thống nhất nhận thức và hành động, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, huy động các nguồn lực với sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành và các tổ chức xã hội cho sự nghiệp giáo dục, ngày 04 tháng 11 năm 2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ban hành Nghị quyết “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 29-NQ/TW). Trong đó Nghị quyết nhấn mạnh, đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả, từ đầu mà cần vừa kế thừa, củng cố, phát huy các thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới, vừa kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình khắc phục, vượt qua để đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới.

2. Đến nay, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, với sự đặc biệt quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và toàn xã hội, chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, mong muốn đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam, tận dụng cơ hội phát triển đất nước trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” và hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Cụ thể:

2.1. Nhận thức và hành động của các cấp uỷ đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực. Hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện Nghị quyết được ban hành tương đối toàn diện, bao quát; thể chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho đổi mới giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế-xã hội, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục theo hướng mở đã thu được kết quả bước đầu, tạo cơ hội, điều kiện cho người học bình đẳng hơn trong tiếp cận giáo dục.

2.2. Giáo dục mầm non của nước ta đã có những bước phát triển về quy mô, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, cơ bản, đã hoàn thành các mục tiêu hoàn thành phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi. Mạng lưới trường, lớp mầm non không ngừng được củng cố, mở rộng và phát triển đa dạng các loại hình, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giáo dục mầm non của người dân. Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non dần được quy chuẩn và đầu tư phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đến nay tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 56,9%. Chất lượng phổ cập giáo dục mầm non từng bước được nâng cao, chuẩn bị điều kiện sẵn sàng cho trẻ em 5 tuổi vào học lớp 1 và học tập tốt ở các cấp học tiếp theo. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục mầm non tăng mạnh về số lượng, chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục mầm non, hình thành và phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non cốt cán.

2.3. Chương trình giáo dục phổ thông (Chương trình giáo dục phổ thông 2018), ban hành bao gồm chương trình tổng thể, các chương trình môn học và hoạt động giáo dục được xây dựng bài bản, công phu, có tính kế thừa và phát triển; quán triệt các quan điểm và tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước. Đến nay, sau ba năm triển khai thực hiện trên phạm vi cả nước bước đầu có chuyển biến tích cực. Đổi mới phương pháp giáo dục được thực hiện ở tất cả các cơ sở giáo dục. Hình thức tổ chức dạy học được đa dạng hóa, ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phương thức thi, kiểm tra đánh giá chất lượng được chuyển dần từ đánh giá kiến thức sang đánh giá năng lực, phẩm chất của người học, đo lường được sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập. Các địa phương phát huy tính chủ động, linh hoạt xây dựng và triển khai kế hoạch dạy học các môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế trên cơ sở bảo đảm mục tiêu, nội dung đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình giáo dục phổ thông. Mạng lưới trường, lớp, từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn của học sinh phổ thông ngày càng được cải thiện, phần lớn học sinh thích thú với phương pháp dạy học mới, có cơ hội trải nghiệm sáng tạo, phát huy sở trường, tự học, tự nghiên cứu tiếp cận bài học, tạo ra sản phẩm phù hợp với mục tiêu và nội dung bài học; học sinh được tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, thăm địa danh lịch sử trong và ngoài địa phương.

Chủ trương xã hội hóa biên soạn sách giáo khoa và có một số sách giáo khoa cho mỗi môn học đã được tổ chức thực hiện đầy đủ ở các môn học, hoạt động giáo dục bắt buộc, huy động được nhiều tổ chức và đông đảo đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học, các chuyên gia có trình độ, kinh nghiệm, năng lực tham gia biên soạn. Nội dung, chất lượng sách giáo khoa các môn học nhìn chung đáp ứng yêu cầu đổi mới theo hướng tinh giản, tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, học sinh có thể tự đọc, tự học một phần kiến thức nội dung mới, góp phần phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Ngành giáo dục, các nhà xuất bản, các địa phương và cơ sở giáo dục quan tâm có chính sách hỗ trợ sách giáo khoa cho học sinh thuộc các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn.

Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở (THCS) tiếp tục được các địa phương quan tâm nhằm củng cố, duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục và từng bước phấn đấu đạt chuẩn mức độ cao hơn. Giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở được quan tâm hơn, tạo điều kiện cho học sinh tốt nghiệp trung học lựa chọn hướng đi phù hợp, tiếp cận nghề nghiệp và học tập suốt đời.

2.4. Giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng về nội dung, hình thức. Tài liệu, phương pháp dạy học được đổi mới phù hợp với từng nhóm đối tượng người học, thiết thực với cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất. Nội dung khóa học tại các trung tâm học tập cộng đồng đã mang đến cơ hội học tập thường xuyên cho nhiều người dân ở nhiều lứa tuổi, đặc biệt là cho những người không có điều kiện học chính quy. Đặc biệt, sự tham gia của gia đình, dòng họ, cộng đồng và bản thân người học thông qua việc thực hiện các mô hình “Gia đình học tập, Dòng họ học tập, Cộng đồng học tập, đơn vị học tập và Công dân học tập” phát triển sâu rộng trên các địa bàn dân cư, góp phần phát huy tốt tinh thần học tập trong học sinh các cấp học và người lớn, người về hưu, người già hăng say học tập theo phương châm: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học làm người”. Quỹ khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập phát triển nhanh chóng ở hầu hết các địa phương trong cả nước, tạo nguồn lực quan trọng thực hiện nhiệm vụ trong Nghị quyết số 29-NQ/TW đề ra.

2.5. Giáo dục nghề nghiệp đã phát triển về số lượng và chú trọng nâng cao chất lượng theo hướng gắn với thị trường lao động, ngày càng thu hút, tuyển sinh nhiều người học (học sinh tốt nghiệp phổ thông, thanh niên…) tham gia học tập nhất là những ngành, nghề đào tạo phù hợp với thực tế của doanh nghiệp, thị trường lao động có nhu cầu. Qua đó, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ của cả nước. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn từng bước được đẩy mạnh, chú trọng đến các đối tượng người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nghèo, phụ nữ nông thôn, bộ đội xuất ngũ các hình thức và mô hình đào tạo phù hợp.

2.6. Giáo dục đại học đã có chuyển biến mạnh mẽ cả về chất lượng, hiệu quả trong đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học và hướng đến tiếp cận mục tiêu giáo dục vì sự phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới, nhất là ngành kỹ thuật và công nghệ. Trong những năm gần đây, số lượng chương trình đào tạo được kiểm định và công bố khoa học quốc tế tăng mạnh, một số cơ sở giáo dục đại học và nhóm ngành đào tạo được xếp hạng cao trong khu vực châu Á và thế giới. Phương pháp dạy - học và công tác thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục được đổi mới theo hướng hiện đại, tiếp cận năng lực, tăng cường kỹ năng ứng dụng và thực hành, chú trọng đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội; quan tâm hơn đến phát triển năng lực ngoại ngữ, kỹ năng mềm. Chính sách, pháp luật về tự chủ đại học đã tạo ra những đổi mới căn bản và toàn diện về phương thức quản lý nhà nước, tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, phát huy dân chủ cơ sở, tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.

2.7. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp học được quan tâm phát triển cả về số lượng và chất lượng, có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, có ý thức học tập, rèn luyện, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Đội ngũ giảng viên đại học được quan tâm phát triển, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng nhanh .Các trường sư phạm đã quan tâm đổi mới phương pháp dạy và học, nghiên cứu khoa học giáo dục, coi trọng hơn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Việc bồi dưỡng năng lực sư phạm, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện thiết bị hiện đại để đổi mới phương pháp dạy học ở nhiều trường, khoa đào tạo giáo viên được chú trọng. Phần lớn các trường sư phạm đã xây dựng trường hoặc cơ sở thực hành sư phạm tạo điều kiện tốt về môi trường học tập, rèn luyện, thực hành, thực tập nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Một số cơ sở đào tạo giáo viên đã mở mã ngành, xây dựng kế hoạch tuyển sinh và tổ chức đào tạo. Thực hiện khá hiệu quả công tác phối hợp giữa ngành giáo dục, nội vụ và các địa phương để có những giải pháp khả thi như: bổ sung biên chế giáo viên; sửa đổi, hoàn thiện cơ chế tuyển dụng lao động nhằm giải quyết khó khăn về thiếu giáo viên và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tập huấn đội ngũ, nâng chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo theo lộ trình thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

Nhiều chính sách ưu đãi, thu hút người học có năng lực và phẩm chất phù hợp với ngành sư phạm (hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm, chế độ cử tuyển đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số). Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo tới đội nhà giáo, với nhiều chính sách hỗ trợ ngoài lương để nhà giáo tăng thêm thu nhập (phụ cấp thâm niên nhà giáo; phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo trực tiếp giảng dạy các cấp học, môn học, đối tượng dạy học theo các mức từ 25% - 70%; phụ cấp vùng miền) đã tạo động lực quan trọng thúc đẩy đội ngũ nhà giáo không ngừng đổi mới, sáng tạo, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hệ thống chính sách miễn, giảm học phí, lộ trình miễn học phí cho trẻ em mầm non, học sinh phổ thông; tín dụng, giá dịch vụ được xây dựng, ban hành, bao phủ các đối tượng, tạo điều kiện cho sinh viên thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo và hộ gia đình hoàn cảnh khó khăn được vay vốn, học tập và lập nghiệp, tạo sự gắn kết giữa kinh tế và xã hội trong công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục.

 2.8.  Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Chi ngân sách cho giáo dục năm sau có cao hơn năm trước, bình quân cả giai đoạn 2013 - 2022, tỷ lệ chi giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm là 17,37%, năm 2022, tổng chi ngân sách cho giáo dục chiếm tỷ lệ 17,87% tổng chi ngân sách nhà nước (tăng 2,16% so với năm 2013), cùng với từng bước đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cơ bản bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ xây dựng trường lớp, cải thiện điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phát triển chương trình, ngành nghề đào tạo của bộ, ngành, địa phương, cơ sở giáo dục và đào tạo, bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo.

2.9. Vị thế giáo dục Việt Nam trong khu vực và trên thế giới từng bước được khẳng định. Thông qua các hoạt động nghiên cứu, công nhận văn bằng hoặc chương trình học bổng, trao đổi học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên, trao đổi chuyên gia hợp tác, đặc biệt với các nước đối tác lớn, chiến lược, truyền thống góp phần đẩy mạnh hội nhập, hợp tác song phương, đa phương với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và nhiều tổ chức quốc tế có uy tín về giáo dục, đào tạo, hiện thực hóa mục tiêu “Đảm bảo đảm bảo một nền giáo dục hòa nhập, bình đẳng, chất lượng và cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người” trong Chương trình Nghị sự vì sự phát triển bền vững đã được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua cũng như các tuyên bố chung, các cam kết quốc tế về giáo dục.

2.10. Các định hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế từng bước được thể chế thông qua việc triển khai thực hiện chuẩn hoá mục tiêu, chương trình đào tạo các cấp học, các trình độ đào tạo, kĩ năng nghề nghiệp, kiểm tra đánh giá, chuẩn đầu ra… Xã hội hóa được đẩy mạnh với nhiều chủ thể tham gia đầu tư, tham gia và giám sát các hoạt động giáo dục, đào tạo; sự phối kết hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội có nhiều cố gắng nhằm khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về đổi mới giáo dục và đào tạo.

3. Tuy nhiên, thẳng thắn nhìn nhận giáo dục và đào tạo Việt Nam sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW chưa thực sự đã thay đổi căn bản, toàn diện về mục tiêu và các yếu tố cơ bản. Việc thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW vẫn còn một số điểm nghẽn, nút thắt, còn có mặt hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập, ngang tầm với khu vực và thế giới:

3.1. Việc thể chế hoá chủ trương đổi mới, căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo chưa đầy đủ, đồng bộ. Chính sách, pháp luật cho đổi mới giáo dục và đào tạo chậm được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện, có thời điểm chậm xử lý các vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách trong đổi mới giáo dục, đào tạo, còn có những khoảng trống giữa lý luận- chính sách và thực tiễn trong tổ chức thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW.

3.2. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo chưa hiệu lực, hiệu quả, thiếu sự gắn kết toàn hệ thống từ trung ương tới cơ sở, chưa phân định rõ giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Sự phối hợp trong công tác quản lý giáo dục và đào tạo giữa trung ương và địa phương và giữa các ngành chưa đồng bộ. Vai trò của cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương tham gia thẩm định, phân bổ kinh phí quyết định tuyển dụng viên chức, bổ nhiệm viên chức quản lý chưa rõ nét. Việc thực hiện tự chủ trong các cơ sở giáo dục, đào tạo gặp nhiều khó khăn. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát ở một số nơi chưa được coi trọng đúng mức.

Việc giao Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cùng tham gia quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, mặc dù có nhiều cố gắng để cùng nhau quản lý tốt giáo dục, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp. Thực tiễn vẫn xuất hiện sự tách biệt, các quy định ban hành gây khó khăn, hạn chế sự liên thông giữa trình độ giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, đồng thời hạn chế phân luồng học sinh tốt nghiệp giáo dục phổ thông nhất là học sinh sau trung học cơ sở vào học giáo dục nghề nghiệp. Vì vậy, điểm nghẽn về giáo dục nghề nghiệp cần được nghiên cứu làm rõ và sớm thống nhất quản lý nhà nước với giáo dục đại học để phù hợp với khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, xây dựng nền giáo dục mở thực học, thực nghiệp.

3.3. Giáo dục mầm non chưa hoàn thành được mục tiêu miễn học phí cho trẻ em mầm non trước năm 2020. Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo 5 tuổi hoàn thành chậm tiến độ 2 năm. Trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ khuyết tật còn hạn chế trong tiếp cận giáo dục mầm non. Chưa hoàn thành mục tiêu thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Chất lượng giáo dục phổ thông chưa đồng đều giữa các vùng miền, giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa các cấp học, giữa loại hình trường công lập và ngoài công lập; đặc biệt vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn rõ nét, chưa được xóa bỏ hoặc giảm bớt để đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục toàn diện cũng như yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

Kết quả triển khai thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông còn có sự chênh lệch giữa khu vực có điều kiện thuận lợi về kinh tế, xã hội với khu vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hệ thống văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện còn chậm so với tiến độ quy định, một số văn bản có nội dung chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn cần nghiên cứu, sửa đổi. Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, gặp nhiều lúng túng, vướng mắc, bất cập. Công tác biên soạn, thẩm định theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 còn nhiều bất cập, chưa chặt chẽ, chất lượng một số sách giáo khoa chưa bảo đảm. Công tác thực nghiệm sách giáo khoa, tập huấn sử dụng, nghiên cứu lựa chọn chưa được coi trọng, còn hình thức. Việc cung ứng, phát hành sách giáo khoa còn qua nhiều khâu trung gian, giá thành sách còn cao, chi phí phát hành chưa hợp lý. Tình trạng sách lậu, sách giả diễn ra phức tạp.

Giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT hiệu quả chưa cao, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo còn bất cập. Định hướng giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên ngay từ bậc học phổ thông chưa tốt, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương mới chỉ đạt 68,3% (chưa đạt so với mục tiêu Nghị quyết số 29-NQ/TW đề ra là 80%). Nội dung kiến thức của một số môn học, bài học chưa thực sự được tinh giản, còn gây áp lực đối với học sinh. Việc tổ chức các môn học mới, các tổ hợp môn học, hoạt động giáo dục chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu, yêu cầu định hướng nghề nghiệp và nhu cầu của người học.

Việc huy động người mù chữ ra học các lớp xoá mù chữ và kết quả xóa mù chữ cho người lớn còn thấp và chưa bền vững, nhất là tại các vùng biên giới, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn. Năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ báo cáo viên, giáo viên tại các trung tâm học tập cộng đồng còn chưa đồng đều. Công tác khảo sát, điều tra, nắm bắt nhu cầu học tập của người dân còn chưa kịp thời, đầy đủ. Việc việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tại một số trung tâm học tập cộng đồng, trung giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên và việc huy động các nguồn lực xã hội tham gia xây dựng xã hội học tập còn hạn chế.

3.4. Đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa chuyển biến rõ nét để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, nhân lực cho các ngành kinh tế mới, công nghệ cao. Công tác đào tạo chưa gắn kết chặt chẽ, thường xuyên với yêu cầu sử dụng lao động và nhu cầu xã hội và tạo cơ hội học tập suốt đời cho người học. Năng lực kết nối giữa viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo, nhà khoa học với doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, chưa khai thác, phát huy được hết tiềm năng nghiên cứu khoa học và khả năng chuyển giao công nghệ trong bối cảnh chuyển đổi số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Công tác đào tạo, đào tạo lại cho lực lượng lao động với các ngành nghề phù hợp giúp hình thành năng lực nghề nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa hiệu quả. Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia đào tạo, với cơ chế, quy định trách nhiệm và khuyến khích doanh nghiệp đào tạo nghề cho người lao động hiệu quả chưa cao.

3.5. Việc thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục từ mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và các cơ sở đào tạo nhà giáo còn chậm, có nơi thực hiện sắp sếp chưa hợp lý, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu vực đông dân cư và miền núi. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tối thiểu, chuẩn hóa ở các cấp học, trình độ đào tạo còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới để thích ứng chuyển đổi từ môi trường đào tạo trực tiếp sang trực tuyến, kết hợp, pha trộn.

3.6. Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa thấm nhuần đến từng nhà giáo. Chất lượng một bộ phận nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục còn thấp, chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Một bộ phận nhà giáo ngại đổi mới, năng lực tự nghiên cứu, tự học, sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin,  công nghệ giáo dục mới chưa đáp ứng yêu cầu. Việc giáo dục đạo đức cho nhà giáo, xây dựng môi trường học đường văn hóa, văn minh chưa được quan tâm đúng mức. Cơ cấu, số lượng đội ngũ giáo viên mầm non, phổ thông còn bất cập, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ. Lương của nhà giáo chưa được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp, chưa đáp ứng mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết số 29-NQ/TW trong khi sức hút sinh viên vào ngành sư phạm còn hạn chế khi áp lực công việc lớn, thu nhập còn thấp, nhất là đối với giáo viên trẻ.

3.7. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục chưa bảo đảm tối thiểu 20% trong tổng chi ngân sách nhà nước để bảo đảm thực hiện các chính sách về học phí, lương nhà giáo và đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, trong khi số lượng cơ sở giáo dục, đào tạo nhiều và trải rộng khắp cả nước, đặc biệt ở cấp học mầm non và phổ thông yêu cầu ngân sách đầu tư rất lớn. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục còn bất cập, chưa thực sự khuyến khích, chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo sự bình đẳng giữa các loại hình trường công lập và ngoài công lập và giữa các cơ sở giáo dục, đào tạo để thu hút nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Ở một số nơi, đầu tư cho giáo dục chưa có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả chưa cao.

3.8. Hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo chưa tương xứng với nhu cầu  bối cảnh quốc tế hóa giáo dục là xu thế toàn cầu. Chính sách về hợp tác và đầu tư trong giáo dục, đào tạo; kết nối, thúc đẩy hợp tác giữa đối tác Việt Nam và đối tác nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư, các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước và nước ngoài, nhất là với các đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện và tận dụng cơ hội từ việc tham gia các hiệp định thương mại đa phương, song phương để đẩy mạnh hoạt động hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo của Việt Nam.

4. Ghi nhận sự cố gắng, nỗ lực của giáo dục và đào tạo Việt Nam sau 10 triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, sự đồng hành, quan tâm ủng hộ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cho sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Song, thực tiễn cho thấy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là vấn đề khó, phức tạp, cần có thời gian, lộ trình phù hợp.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới, tạo chuyển biến căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện thành công các đột phá chiến lược theo mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, việc tiếp tục thực hiện quan điểm, định hướng đổi mới được xác định trong Nghị quyết số 29-NQ/TW cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa từ Bộ Chính trị. Trong đó cần xác định rõ những nội dung trọng tâm giúp giáo dục và đào tạo Việt Nam tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt, giải quyết triệt để những tồn tại, bất cập, tạo nguồn lực, cơ chế thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam trong giai đoạn mới.

Tài liệu tham khảo

Xem thêm trong file đính kèm./.