Nghiên cứu của nhóm tác giả Van Hung Pham và Thi Yen Le được thiết kế nhằm làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đầu tư công tại các trường đại học tự chủ của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công tại các trường đại học này ở Việt Nam như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng quy trình quản lý đầu tư công phù hợp với đặc điểm của trường đại học,...
Đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động kiểm tra, đánh giá trong giáo dục nói chung nhưng tác động của hai hình thức tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng vẫn chưa được chú ý trong việc học ngôn ngữ, đặc biệt là tác động của chúng đến khả năng tự điều chỉnh học tập, tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL). Bài báo của Tribhuwan Kumar cùng cộng sự tập trung kiểm tra tác động của các hoạt động tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng đối với việc tự điều chỉn
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu, tài liệu trước đó, Jinjin Wang đã phân tích lịch sử phát triển, đặc điểm và thực trạng quản lý giáo dục đại học tại Trung Quốc và phương Tây, xác định những ưu điểm và ý nghĩa tham khảo của giáo dục đại học phương Tây, và đưa ra những đề xuất mang tính xây dựng về việc bản địa hóa hệ thống giám sát giáo dục và lý thuyết quản trị của Trung Quốc thông qua bài viết mang tên “Research on higher education governance in China and the West".
Gần đây, tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp đã nổi lên như một phương pháp được sử dụng thường xuyên và trọng tâm trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như tâm lý học, sư phạm, tội phạm học, kinh doanh, sinh thái học và các lĩnh vực khoa học khác cũng như y học. Bài viết này nhằm mục đích giúp độc giả tìm hiểu về tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp là gì cũng như cách xem xét và đánh giá các bài báo đó, đặc biệt là trong lĩnh vực y học.
Tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương pháp quản trị đại học tiên tiến nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo. Nghiên cứu “Factors affecting the linkage between public universities, in the context of university autonomy: Case study in Vietnam” do Quang Bach Tran và cộng sự thực hiện nhằm mục đích xem xét mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến liên kết giữa các trường đại học công lập trong bối cảnh tự chủ đại học ở Việt Nam.
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, tự chủ trường đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết của Martin Hayden và Lam Quang Thiep cung cấp một cái nhìn tổng quan về đặc điểm nổi bật của hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam, đặc biệt là những thách thức mà các tổ chức, cá nhân phải đối mặt liên quan đến việc nhà nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học.
Trong ba thập kỷ qua đã có những thay đổi liên quan đến cơ cấu và cơ chế quản trị giáo dục đại học Việt Nam. Bài viết “Academic governance and leadership in Vietnam: Trends and challenges” của Jamil Salmi và Ly Thi Pham cung cấp cái nhìn tổng quan về quản trị và lãnh đạo học thuật tại Việt Nam ở cấp quốc gia và cấp trường, tập trung nhiều hơn vào khu vực công. Đồng thời phân tích những phát triển trong chính sách mới nhằm đạt được cải cách giáo dục đại học.
Một hệ thống giáo dục thành công dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó các nhà quản lý được coi là yếu tố chính, có thể tác động tới 80% kết quả trong nỗ lực nâng giáo dục lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, trong hành trình nâng tầm giáo dục, mọi nhà quản lý giáo dục đều sẽ gặp phải những thất bại và điều quan trọng cần làm đó là lập một kế hoạch nhằm ứng phó với chúng.
Nhà nước, nguồn tài trợ quan trọng nhất trong các hoạt động nghiên cứu khoa học mang tính rủi ro cao, cũng có các cơ chế riêng biệt nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư công. Mỗi một quốc gia có một cơ chế quản lý rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học khác nhau, trong đó cơ chế được sử dụng phổ biến nhất là đánh giá mức độ rủi ro trong quá trình phê duyệt nghiên cứu.
Tại Vương quốc Anh, nhiều giáo viên cho biết đã nghĩ đến chuyện nghỉ việc. Trước thực trạng đáng lo này, nghiên cứu của tác giả Shaun Thomspon chỉ ra những áp lực về sức khỏe tâm lý và phúc lợi mà giáo viên ở Vương quốc Anh phải đối mặt. Tình hình hiện tại dường như không có tác động tích cực nào đối với các trường học.
Bài viết của hai tác giả David Rettinger và Erica Price Burns nêu ra những điểm chính nhằm giúp các cơ sở giáo dục đại học tại Hoa Kỳ xem xét khi tạo ra môi trường khuyến khích sự liêm chính trong học tập giữa các sinh viên.
Nghiên cứu “Gender in mathematics: how gender role perception influences mathematical capability in junior high school” của hai tác giả Guihua Xie & Xinyu Liu thảo luận về sự khác biệt giới trong việc học toán ở cấp trung học cơ sở tại Trung Quốc và mối quan hệ giữa toán học với quan điểm giới tính.
Nghiên cứu của Tomasz Zając & cộng sự thực hiện nghiên cứu mang tên “Student mental health and dropout from higher education: an analysis of Australian administrative data” nhằm lấp đầy khoảng trống của các nghiên cứu đi trước, cung cấp toàn diện về mối liên hệ giữa tình trạng sức khỏe tinh thần của sinh viên và vấn nạn bỏ học đại học của sinh viên tại Úc.
Phương pháp sư phạm lớp học đảo ngược đã trở thành một cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi trong phương pháp dạy học kết hợp (blended learning). Nghiên cứu của Oscar Ölmefors và Jan Scheffel có mục tiêu chính là tìm hiểu quan điểm của học sinh về lớp học đảo ngược, vốn đang được áp dụng như một phương pháp sư phạm ở một trường trung học phổ thông Thụy Điển.
Nghiên cứu của hai tác giả Kyung Hee Park và Jinyoung Yu khám phá cơ chế hoạt động của thị trường lao động bằng cách xác định vai trò của giáo dục trung cấp nghề đối với lao động trẻ Hàn Quốc đã tốt nghiệp trung học. Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu tập trung vào chính sách của Trường Trung học Meister (MHS) nhằm thúc đẩy vị trí dẫn đầu của trường này trong giáo dục trung học dạy nghề ở Hàn Quốc.
Vương Quốc Anh nổi tiếng là một trong những quốc gia có những chính sách ưu việt về Tài chính trong giáo dục Đại học. Tuy nhiên, có nhiều lầm tưởng phổ biến về vấn đề tài trợ cho giáo dục đại học. Nicholas Barr, một giáo sư tại đại học London School of Economics, đã đưa ra những quan điểm cứng rắn và phản ánh những lầm tưởng phổ biến này.
Nghiên cứu của Marzuki và cộng sự có mục tiêu chính là tìm hiểu các công cụ viết sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hiện đang có sẵn và đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với bài luận của học viên, đặc biệt là về nội dung và cách tổ chức, từ cảm nhận của các giáo viên dạy tiếng Anh của các học sinh học tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL). Bằng cách sử dụng một phương pháp định tính, nhóm tác giả thiết kế nghiên cứu này dưới dạng nghiên cứu trường hợp.
Nhiều người không nhìn những nỗ lực để đạt được mục đích. Quá trình học tập hay quá trình tiếp thu tri thức mới thường đầy thất bại, được đặc trưng bởi hàng giờ thử và sai để đạt được điều gì đó “đúng”. Bài báo của hai tác giả Kenan Kok Xiao-Feng & Oran Devilly khuyến khích chúng ta nên học cách tôn vinh quá trình cũng như kết quả đạt được thông qua 3 bước: nhận ra thất bại, đón nhận thất bại và tiếp thu thất bại.
Một số bài thi cấp quốc tế và quốc gia tại Úc cho thấy trung bình học sinh nông thôn đạt kết quả học tập không cao bằng các học sinh ở thành thị, bao gồm Chương trình thẩm định toàn quốc về khả năng Đọc viết và Toán số (NAPLAN) và Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA), theo kết quả nghiên cứu của Phó Giáo sư Philip Roberts (Đại học Canberra, Úc).
Các nghiên cứu đi trước về quốc tế hoá giáo dục đại học thường chú ý đến góc nhìn của sinh viên, trong đó năng lực liên văn hoá thường được coi là yếu tố then chốt. Tuy nhiên, góc nhìn và năng lực liên văn hoá của giảng viên cũng đóng vai trò quan trọng và cần được xem xét kĩ lưỡng. Một khía cạnh quan trọng của thực hành giáo dục là kĩ năng phản hồi, chịu ảnh hưởng nhiều bởi trải nghiệm văn hoá và ngôn ngữ của cả giảng viên và sinh viên.