Từ phong trào “Bình dân học vụ” đến “Bình dân học vụ số” ngày nay

Phong trào "Bình dân học vụ số" đang được xem như một giải pháp chiến lược để nâng cao dân trí số, phục vụ yêu cầu phát triển quốc gia trong kỷ nguyên mới.

80 năm trước, phong trào “Bình dân học vụ” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động đã giúp xóa nạn mù chữ cho hơn 90% dân số Việt Nam lúc bấy giờ, đặt nền móng cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Ngày nay, trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ và nền kinh tế tri thức lên ngôi, Việt Nam lại đứng trước yêu cầu cấp thiết phải phổ cập kỹ năng số tới toàn dân. Sự ra đời của phong trào “Bình dân học vụ số” nằm trong tổng thể các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi số toàn diện quốc gia, đặc biệt sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Thủ tướng Chính phủ cũng đã nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu xây dựng “xã hội số, công dân số” để đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển. Phong trào “Bình dân học vụ số” cụ thể hóa yêu cầu này, hướng tới việc xóa bỏ khoảng cách giữa các nhóm dân cư, các vùng miền; giúp mọi người dân ở mọi vùng miền đều nắm được kỹ năng cơ bản trong thế giới số. Trong bối cảnh đó, việc khơi dậy tinh thần học tập suốt đời, tự học, tự cập nhật tri thức số của mỗi người dân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, tương tự như tinh thần “người người đi học chữ” những năm 1945-1946. Đây là tiền đề để đảm bảo tính bao trùm, bền vững cho chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

Giáo sư Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội đã có những chia sẻ về vấn đề này.

Giáo sư Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội

Xin Giáo sư so sánh ý nghĩa lịch sử của 2 phong trào: “Bình dân học vụ” và “Bình dân học vụ số” hiện nay. Theo Giáo sư, 2 phong trào này giống và khác nhau ra sao về tầm vóc, đối tượng và tác động xã hội?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Câu chuyện “Bình dân học vụ” năm 1945 không đơn thuần chỉ là việc dạy dân biết đọc, biết viết. Vào thời điểm đó, với tư duy toàn cầu và tầm nhìn xuyên thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy một vấn đề có tầm chiến lược. Đó là muốn giữ được độc lập thì phải nâng cao dân trí bởi một dân tộc không biết chữ là một dân tộc yếu. Vì thế, nâng cao dân trí trở thành yêu cầu cấp bách, sống còn, gắn với vận mệnh quốc gia, dân tộc. Dù đất nước khi ấy đang bộn bề với “thù trong giặc ngoài”, giặc đói hoành hành, hiểm họa xâm lược đang cận kề, nhưng Người vẫn đề cao việc học, nâng cao dân trí, từ đó gây dựng nền độc lập vững mạnh. Có thể nói, trong số các nước thuộc địa giành lại được độc lập sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Việt Nam là quốc gia duy nhất coi xóa nạn mù chữ là việc cấp bách như chống giặc, cứu đói. Nhờ quyết tâm đó, chỉ trong thời gian ngắn, nước ta đã xóa được nạn mù chữ cho gần 90% dân số khi ấy còn chưa biết đọc, biết viết.

Ngày nay, tỷ lệ người biết chữ đã đạt trên 98%, nhưng lại xuất hiện một yêu cầu phổ cập mới: phổ cập công nghệ và kỹ năng số. Công nghệ thông tin giờ đây đã trở thành yêu cầu căn bản của mọi hoạt động đời sống và sản xuất. Tuy nhiên, nhiều người dân khi phải thao tác trên nền tảng số vẫn thấy lúng túng. Tôi lấy ví dụ như người bán hàng phải kê khai hóa đơn điện tử, thanh toán không tiền mặt… vẫn chưa thành thạo, giống như người dân khi xưa chưa biết cầm bút, viết một lá đơn. Đó chính là khoảng trống cần lấp đầy, là “vùng trắng” cần phải được xóa bỏ.

Vì vậy, “Bình dân học vụ số” hôm nay cũng mang ý nghĩa giống như “Bình dân học vụ” trước đây, nghĩa là nâng cao dân trí, nhưng trong một bối cảnh và yêu cầu mới của thời đại kỹ thuật số.

Theo Giáo sư, để phong trào “Bình dân học vụ số” thành công, cần có sự phối hợp ra sao giữa Bộ Giáo dục và đào tạo, các địa phương, doanh nghiệp công nghệ và các tổ chức xã hội?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Cũng giống như phong trào xóa mù chữ trước đây, “Bình dân học vụ số” không phải là câu chuyện của riêng ngành giáo dục. Đây phải là quốc sách, cần sự vào cuộc đồng bộ của tất cả các bộ, ngành, địa phương.

Tôi lấy ví dụ, mỗi ngành, nghề như công an, quân đội, y tế, nông nghiệp… đều cần ý thức trách nhiệm xây dựng nâng cao kỹ năng cho nhân viên biết và ứng dụng kỹ năng số. Một trong những thách thức lớn đặt ra hiện nay trong việc triển “Bình dân học vụ số” là thói quen, tâm lý ngại thay đổi của một bộ phận người dân và cán bộ. Giống như khi vận động người dân đi học chữ, ban đầu cũng khó, nhưng sau đó thành phong trào toàn dân. Bây giờ cũng vậy, bất kỳ người dân nào cũng cần phải biết thao tác cơ bản với công nghệ. Muốn vậy, cần có sự tuyên truyền mạnh mẽ, dễ hiểu, dễ tiếp cận để người dân nhận thức rõ: Nếu không biết về công nghệ, họ sẽ khó bắt kịp dòng chảy kinh tế - xã hội hiện đại.

Trong tiến trình đó, giáo dục đào tạo đóng vai trò dẫn dắt, xây dựng chương trình, nhưng việc triển khai cần trách nhiệm của cả một hệ thống. Ví dụ, có những lĩnh vực đặc thù như cảnh sát giao thông, quân đội,… cần có chương trình đào tạo riêng phù hợp với tính chất công việc trong thực tế. Mỗi bộ, ban ngành phải tự chịu trách nhiệm đào tạo nhân lực số trong phạm vi của mình.

Trên thế giới, các quốc gia khác thực hiện phổ cập kỹ năng số cho toàn dân như thế nào? Xin Giáo sư cho biết.

Giáo sư Vũ Minh Giang: Thực tế, trên thế giới chưa nước nào tổ chức phong trào theo hình thức “Bình dân học vụ số” như cách thức Việt Nam đang làm. Nhật Bản hay một số quốc gia khác không tổ chức thực hiện phong trào nâng cao kỹ năng số toàn dân như Việt Nam đang hướng tới. Người dân cần tự trang bị kỹ năng theo nhu cầu nghề nghiệp hoặc thị trường yêu cầu. Còn ở Việt Nam xác định rõ muốn vươn lên, muốn bứt phá mạnh mẽ cần xây dựng một nền kinh tế số, xã hội số một cách toàn diện, vì vậy mới đặt mục tiêu “Bình dân học vụ số” cho toàn dân. Đây là một cách làm đặc biệt, chưa từng có trên thế giới.

Trước đây, Việt Nam từng thành công trong việc xóa mù chữ, và tiến tới là phổ cập kỹ năng số cho toàn dân. Hàn Quốc từng có phong trào “Xây dựng nông thông mới” tập trung nâng cao dân trí nông dân để thúc đẩy xã hội phát triển, Việt Nam hôm nay chọn công nghệ số làm “mặt trận” mới để bứt phá. Nếu làm tốt phong trào này, Việt Nam sẽ có một nền tảng dân trí số mạnh. Vì vậy, “Bình dân học vụ số” không phải là câu chuyện riêng của giáo dục, mà là quốc sách toàn dân, toàn diện.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!

Hà Giang

Bạn đang đọc bài viết Từ phong trào “Bình dân học vụ” đến “Bình dân học vụ số” ngày nay tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

Phòng, chống COVID-19