Định lí Sin là định lí xuất hiện nhiều trong toán học và có ứng dụng nhiều trong cuộc sống. Bài báo của Ngoc Giang Nguyen va Huyen Trang Pham xem xét sự kết hợp giữa phương pháp học tập theo thuyết kiến tạo và định lí Sin cũng như mối quan hệ giữa toán học với các lĩnh vực khác được thể hiện thông qua định lí này.
Với nghiên cứu “Difficulties in Teaching English for Specific Purposes: Empirical Study at Vietnam Universities”, Nguyễn Thị Tố Hoa và Phạm Thị Tuyết Mai đã thực hiện khảo sát giáo viên và sinh viên tại các trường đại học ở Hà Nội bằng cách liệt kê các yếu tố liên quan đến việc dạy tiếng Anh theo mục đích cụ thể. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh cho những mục đích cụ thể để người học có thể sử dụng tiếng Anh phục vụ cho công việc và cuộc.
Trong kỷ nguyên số đang chiếm lĩnh hầu hết các mặt của đời sống hiện đại, sự xuất hiện của các công nghệ số (hay các công nghệ thông tin và truyền thông - ICT) trong lớp học là cần thiết và là một thực tế không thể tránh khỏi.
Trong nhiều năm gần đây, Tạp chí Giáo dục (Tạp chí) của ngành đã có nhiều cống hiến trong định hướng tư tưởng, thông tin lí luận khoa học và thực tiễn giáo dục. Giá trị lớn nhất của tạp chí khoa học là sự chuẩn mực về học thuật, có nhiều đổi mới vượt bậc về nội dung và hình thức, ngày càng xứng đáng là người bạn đồng hành, tin cậy của những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và quản lí giáo dục.
Với mục đích giúp giáo viên nâng cao chất lượng giờ dạy trực tuyến, nghiên cứu của hai tác giả Carolina Lara Robles và Cynthia Enciso Centeno đề xuất một số giải pháp cải thiện giờ dạy và phát triển kĩ năng của giáo viên trong môi trường số.
Gần đây, nhiều người không khỏi bất ngờ trước sự tiến bộ của các ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), chẳng hạn như ChatGPT (OpenAI). Cụ thể, với công nghệ xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP), AI có thể tạo ra nội dung bằng văn bản tương tự như các sản phẩm do con người tạo ra. Trong bài viết này, Quan-Hoang Vuong và cộng sự sẽ thảo luận về một số điểm chính liên quan đến thực trạng và tương lai của AI trong giới học thuật; đồng thời trình bày một số kinh nghiệm thực tế khi làm việc với ChatGPT.
Với phương pháp trắc lượng thư mục, Putera và cộng sự đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về xu hướng nghiên cứu và mạng lưới các nhà nghiên cứu và đồng nghiên cứu của Indonesia trong lĩnh vực khoa học nông nghiệp và sinh học.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Van Hung Pham và Thi Yen Le được thiết kế nhằm làm sáng tỏ các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đầu tư công tại các trường đại học tự chủ của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công tại các trường đại học này ở Việt Nam như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng quy trình quản lý đầu tư công phù hợp với đặc điểm của trường đại học,...
Đã có nhiều nghiên cứu về hoạt động kiểm tra, đánh giá trong giáo dục nói chung nhưng tác động của hai hình thức tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng vẫn chưa được chú ý trong việc học ngôn ngữ, đặc biệt là tác động của chúng đến khả năng tự điều chỉnh học tập, tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL). Bài báo của Tribhuwan Kumar cùng cộng sự tập trung kiểm tra tác động của các hoạt động tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng đối với việc tự điều chỉn
Vào cuối năm 2022, sự xuất hiện của ChatGPT, một chatbot trí tuệ nhân tạo (AI) với khả năng viết đáng kinh ngạc đã gây chấn động lớn trong giới học thuật. Theo một số nguồn tin, đã có các nhà nghiên cứu liệt kê chatbot (bao gồm cả phiên bản trước đó của nó) là đồng tác giả cho bài báo của họ. Đáp lại, Nature và Science bày tỏ quan điểm rằng chatbot này không thể được liệt kê là tác giả trong các bài báo họ xuất bản.
Dựa trên cơ sở các nghiên cứu, tài liệu trước đó, Jinjin Wang đã phân tích lịch sử phát triển, đặc điểm và thực trạng quản lý giáo dục đại học tại Trung Quốc và phương Tây, xác định những ưu điểm và ý nghĩa tham khảo của giáo dục đại học phương Tây, và đưa ra những đề xuất mang tính xây dựng về việc bản địa hóa hệ thống giám sát giáo dục và lý thuyết quản trị của Trung Quốc thông qua bài viết mang tên “Research on higher education governance in China and the West".
Gần đây, tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp đã nổi lên như một phương pháp được sử dụng thường xuyên và trọng tâm trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như tâm lý học, sư phạm, tội phạm học, kinh doanh, sinh thái học và các lĩnh vực khoa học khác cũng như y học. Bài viết này nhằm mục đích giúp độc giả tìm hiểu về tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp là gì cũng như cách xem xét và đánh giá các bài báo đó, đặc biệt là trong lĩnh vực y học.
Tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương pháp quản trị đại học tiên tiến nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo. Nghiên cứu “Factors affecting the linkage between public universities, in the context of university autonomy: Case study in Vietnam” do Quang Bach Tran và cộng sự thực hiện nhằm mục đích xem xét mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến liên kết giữa các trường đại học công lập trong bối cảnh tự chủ đại học ở Việt Nam.
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, tự chủ trường đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết của Martin Hayden và Lam Quang Thiep cung cấp một cái nhìn tổng quan về đặc điểm nổi bật của hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam, đặc biệt là những thách thức mà các tổ chức, cá nhân phải đối mặt liên quan đến việc nhà nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học.
Trong khuôn khổ các hoạt động kỷ niệm 5 năm thành lập RCISS , TS. Phạm Hiệp đã chia sẻ một số suy nghĩ của mình về RCISS như là một NNC. Trong phần đầu bài viết, tác giả sẽ chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân trong việc xây dựng, phát triển và vận hành NNC RCISS. Trong phần 2, tác giả trình bày một số suy nghĩ về việc xây dựng, phát triển và vận hành NNC trong lĩnh vực KHXH ở Việt Nam. Một số góp ý cho các nhà làm chính sách, lãnh đạo đại học cũng sẽ được đưa ra ở cuối phần này.
Trong ba thập kỷ qua đã có những thay đổi liên quan đến cơ cấu và cơ chế quản trị giáo dục đại học Việt Nam. Bài viết “Academic governance and leadership in Vietnam: Trends and challenges” của Jamil Salmi và Ly Thi Pham cung cấp cái nhìn tổng quan về quản trị và lãnh đạo học thuật tại Việt Nam ở cấp quốc gia và cấp trường, tập trung nhiều hơn vào khu vực công. Đồng thời phân tích những phát triển trong chính sách mới nhằm đạt được cải cách giáo dục đại học.
Một hệ thống giáo dục thành công dựa trên rất nhiều yếu tố, trong đó các nhà quản lý được coi là yếu tố chính, có thể tác động tới 80% kết quả trong nỗ lực nâng giáo dục lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, trong hành trình nâng tầm giáo dục, mọi nhà quản lý giáo dục đều sẽ gặp phải những thất bại và điều quan trọng cần làm đó là lập một kế hoạch nhằm ứng phó với chúng.
Nhà nước, nguồn tài trợ quan trọng nhất trong các hoạt động nghiên cứu khoa học mang tính rủi ro cao, cũng có các cơ chế riêng biệt nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học và đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư công. Mỗi một quốc gia có một cơ chế quản lý rủi ro trong hoạt động nghiên cứu khoa học khác nhau, trong đó cơ chế được sử dụng phổ biến nhất là đánh giá mức độ rủi ro trong quá trình phê duyệt nghiên cứu.
Tại Vương quốc Anh, nhiều giáo viên cho biết đã nghĩ đến chuyện nghỉ việc. Trước thực trạng đáng lo này, nghiên cứu của tác giả Shaun Thomspon chỉ ra những áp lực về sức khỏe tâm lý và phúc lợi mà giáo viên ở Vương quốc Anh phải đối mặt. Tình hình hiện tại dường như không có tác động tích cực nào đối với các trường học.