Trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới có 2 tiêu chí thuộc lĩnh vực giáo dục, gồm: Tiêu chí số 5 về trường học và tiêu chí số 14 về giáo dục. Theo đó, xã đạt tiêu chí số 5 khi có 70% trở lên số trường (mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS, TH&THCS) trên địa bàn xã có cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt chuẩn quốc gia; xã đạt chuẩn tiêu chí số 14 khi đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS mức độ 2 trở lên, xóa mù chữ mức độ 2, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, trung cấp) đạt 70% trở lên. Huyện đạt chuẩn NTM khi có tỷ lệ trường THPT đạt chuẩn quốc gia từ 60% trở lên.
Nhiều thuận lợi song vẫn còn khó khăn
Về Tiêu chí 5 (Trường học) ngành GD-ĐT đã chủ động phối hợp cùng các ngành, xã liên quan rà soát điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường lớp khớp nối với quy hoạch chung của thành phố, trình thành phố phê duyệt. Thực hiện rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển cơ sở giáo dục, trên cơ sở quy hoạch quỹ đất công dành cho phát triển giáo dục và đào tạo, qua đó thực hiện việc mở rộng diện tích đủ chuẩn, điều chỉnh điểm trường cho phù hợp, đảm bảo có sân chơi, bãi tập cho học sinh…
Trong thời gian tới, ngành Giáo dục tiếp tục đặt ra một số nhiệm vụ. Trong đó, đặc biệt đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa về xây dựng cơ sở vật chất trường học, giáo dục và chăm sóc trẻ mầm non, phổ thông, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục; Tiếp tục phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên…
Bên cạnh những thuận lợi, còn có một số khó khăn nhất định do có nhiều địa bàn miền núi tương đối rộng, dân cư nằm rải rác, phần lớn học sinh ở vùng núi là con em gia đình dân tộc thiếu số, gia đình nghèo, có thu nhập thấp, dân nhập cư nhiều biến động nên việc thực hiện công tác cập nhật và vận động học viên ra lớp giáo dục thường xuyên cấp THCS gặp rất nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ, giáo viên làm công tác phổ cập từ trường đến Sở GD&ĐT phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, nên việc thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục THCS còn nhiều bất cập, hạn chế...
Bộ GD&ĐT đã ban hành thông tư 06, thông tư 16, các quy định định mức trong thông tư này là cơ sở để ngành Giáo dục và Nội vụ tính về biên chế đội ngũ nhà giáo. Tuy nhiên, so với định mức ở 2 Thông tư này thì hiện cả nước còn thiếu gần 107.000 giáo viên. Chia ra các cấp học thì mầm non thiếu 44.000 giáo viên, tiểu học thiếu trên 32.000, THCS thiếu 18.000, THPT thiếu gần 12.000. Theo đại diện Cục Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, nguyên nhân thiếu giáo viên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Cụ thể, tăng dân số cơ học ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, chế xuất… làm trường lớp tăng, học sinh tăng dẫn đến thiếu giáo viên. Bên cạnh đó là chế độ chính sách, tiền lương của giáo viên. Trong đó, đề xuất sửa đổi các Thông tư quy định về số lượng người làm việc, định mức biên chế. Theo hướng tính tỷ lệ giáo viên/học sinh và theo vùng miền là giải pháp tiên phong được đặt lên đầu.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Bộ GD-ĐT phối hợp Bộ Nội vụ trình Chính phủ bổ sung gần 66.000 biên chế. Trong đó, năm học 2022-2023 là 27.850 biên chế. Vấn đề này, Cục Nhà giáo tham mưu với lãnh đạo Bộ GD-ĐT có văn bản gửi địa phương đề nghị tuyển dụng hết giáo viên đã được giao. Ngoài ra, tham mưu lãnh đạo Bộ GD-ĐT xem xét trình Chính phủ đề xuất về mức lương, chế độ phụ cấp cho đội ngũ nhà giáo. Cụ thể, đối với giáo viên mới ra trường đề xuất thẳng vào bậc 2 bỏ qua bậc 1. Mục đích để giải quyết khó khăn cho giáo viên ra trường. Cạnh đó, đối với giáo viên hợp đồng đảm bảo mức lương không thấp hơn mức lương trung bình doanh nghiệp trên cùng địa bàn. Đây cũng là một trong những tiêu chí để đáp ứng được tiêu chí Nông thôn mới trong lĩnh vực giáo dục.
“Cơ hội vàng” trong ngành Giáo dục
Trong những khó khăn này, có những khó khăn chung, tuy nhiên cũng có khó khăn mang tính chất từng địa phương như thiếu thốn cơ sở vật chất, thiếu giáo viên mầm non,…
Các Sở GD-ĐT tỉnh, thành chia sẻ những giải pháp trong đó những giải pháp mang tính chất bao trùm có thể kế thừa. Đó là sự quan tâm của lãnh đạo địa phương, sự chủ động tham mưu đề xuất của ngành Giáo dục các tỉnh, thành. Ngoài ra, có sự vào cuộc đồng bộ của hệ thống chính trị…
Nhưng đầu tiên là vấn đề về nhận thức từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên. Đó là sự nhận thức của lãnh đạo và đặc biệt là nhận thức của những người thực thi. Nhận thức của những người trong ngành Giáo dục là xây dựng nông thôn mới, đó là cơ hội vàng trong ngành Giáo dục đặt trong bối cảnh chung của các tiêu chí khác đồng bộ trong chương trình. Bây giờ nguồn lực đầu tư cho giáo dục là nguồn lực từ các Chương trình mục tiêu quốc gia.
Từ nhận thức này, chúng ta phải chuyển hóa thành hành động. Cụ thể, nghiên cứu các hệ thống văn bản, để trên cơ sở đó tham mưu xây dựng kế hoạch mang tính khả thi phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương, kế hoạch hằng năm, trung hạn cho việc xây dựng nông thôn mới trong ngành Giáo dục.
Đồng thời, trong kế hoạch phải dự toán kinh phí, để HĐND các tỉnh, thành có Nghị quyết về nguồn lực kinh phí từ các Chương trình mục tiêu quốc gia cộng các chương trình khác để phát triển cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đáp ứng tiêu chí mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Phải có tầm nhìn xa, hiện các tỉnh, thành đều làm quy hoạch, trong đó chúng ta phải lưu ý phát triển mạng lưới giáo dục địa phương. Nhất là vùng thành phố, khu công nghiệp, phải có quỹ đất cho giáo dục. Tiếp tục tuyên truyền với quan điểm đi vào thực chất, tránh bệnh thành tích. Bên cạnh đó là công tác quản lý, kế hoạch, chỉ đạo kiểm tra.
Tạp chí Giáo dục