Trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (Chương trình NTM) giai đoạn 2021 - 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) thực hiện nhiệm vụ thuộc Tiêu chí số 14 về Giáo dục và đào tạo và một phần quan trọng của Tiêu chí số 13 về Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn (thông qua đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực). Để chuyển hóa các mục tiêu chiến lược của Quyết định số 263/QĐ-TTg thành hành động cụ thể tại cơ sở, Bộ GDĐT đã chủ động ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn chuyên môn đồng bộ, nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở khu vực nông thôn.
Các văn bản này đóng vai trò là định hướng, hướng dẫn, xác định mục tiêu, phạm vi và trách nhiệm triển khai của toàn ngành, đồng thời, cụ thể hóa các nhiệm vụ của Bộ được giao tại Quyết định số 263/QĐ-TTg thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2021 - 2025. Thứ nhất, đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa cơ sở vật chất trường, lớp học. Đây là nền tảng vật chất để nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt trong bối cảnh triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) 2018, hướng đến trường học đạt chuẩn quốc gia và chuẩn NTM nâng cao. Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục và đội ngũ giáo viên, bồi dưỡng đội ngũ theo chuẩn nghề nghiệp mới, triển khai lộ trình nâng chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên các cấp theo Luật Giáo dục, đảm bảo đội ngũ giáo viên nông thôn có trình độ chuyên môn đạt chuẩn theo quy định mới giáo dục hướng nghiệp và phân luồng, phổ cập giáo dục, chống mù chữ, tái mù chữ, đặc biệt cho các đối tượng trong độ tuổi lao động. Thứ ba, đào tạo kỹ năng và bồi dưỡng cộng đồng, xây dựng xã hội học tập ở nông thôn. Thứ tư, phát triển các giải pháp và lồng ghép nguồn lực, có cơ chế phối hợp chặt chẽ, lồng ghép hiệu quả nguồn vốn từ Chương trình NTM với các chương trình mục tiêu quốc gia khác (như Giảm nghèo bền vững, Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi) và các chương trình đầu tư công của ngành để tập trung đầu tư cho giáo dục, tránh phân tán nguồn lực.
Hệ thống văn bản của Bộ GDĐT phân công trách nhiệm cho các đơn vị Cục, Vụ chuyên môn (như Vụ Cơ sở vật chất, Vụ Giáo dục Mầm non, Vụ Giáo dục Phổ thông,...) trong việc xây dựng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các tiêu chí NTM. Văn bản đặt ra các chỉ tiêu phấn đấu cụ thể về tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM về giáo dục, tỷ lệ xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu về tiêu chí giáo dục, đồng thời hướng dẫn các đơn vị trực thuộc và địa phương về cơ chế lồng ghép nguồn vốn từ các Chương trình mục tiêu quốc gia (NTM, Giảm nghèo, Phát triển vùng DTTS) để đầu tư cho giáo dục.
Trong giai đoạn 2021 - 2025, Bộ GDĐT triển khai hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện 03 Thông tư quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia với trường mầm non, trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học và văn bản hướng dẫn kiểm định chất lượng giáo dục đối với trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên.
Năm 2024, Bộ GDĐT đã ban hành các Thông tư 22/2024-TT-BGDĐT ngày 10/12/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban hành kèm theo Thông tư số 17/2018/TT-BGDĐT, Thông tư số 18/2018/TT-BGDĐT và Thông tư số 19/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 để giúp các cơ sở giáo dục, địa phương thực hiện hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia phù hợp với yêu cầu phát triển mới về giáo dục và kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước.
Trong giai đoạn 2021 - 2025, số trường học đạt kiểm định chất lượng giáo dục và chuẩn quốc gia ngày cao tăng cao là cơ sở để các địa phương đầu tư ngân sách thực hiện công tác này. Đối với lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp (GDNN), thực hiện nhiệm vụ được giao trong quản lí, điều hành thực hiện Nội dung 09 thuộc Nội dung thành phần số 03, Cục GDNN&GDTX (trước đây là Tổng cục GDNN - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) đã có các văn bản đề xuất, góp ý hoàn thiện hệ thống các văn bản trong triển khai thực hiện Chương trình. Đơn vị cũng đã chủ động xây dựng, ban hành 02 Thông tư hướng dẫn thực hiện theo nhiệm vụ được giao. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng, đề xuất các nội dung về GDNN tại các Thông tư để tạo hành lang pháp lí cho các bộ, ngành, địa phương, cơ sở GDNN trong cả nước tổ chức thực hiện các nhiệm vụ có liên quan.

Từ nguồn lực tăng cường của Chương trình NTM, diện mạo trường lớp có nhiều thay đổi. Ảnh: Thanh Tùng
Các văn bản, hướng dẫn của Bộ GDĐT lồng ghép thực hiện các tiêu chí của Chương trình NTM trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học, chuẩn hoá các tiêu chí. Việc này đảm bảo việc triển khai tiêu chí NTM được tích hợp thường xuyên vào các hoạt động giáo dục và đào tạo của các cơ sở giáo dục, trong đó yêu cầu các Sở GDĐT đưa nội dung xây dựng NTM, nâng cao chất lượng giáo dục theo tiêu chí NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu vào nội dung trọng tâm của nhiệm vụ năm học.
Đây là các văn bản quan trọng, cung cấp quy định kỹ thuật để các địa phương áp dụng trong việc đánh giá và đầu tư, qua đó thực hiện Tiêu chí 14 về cơ sở vật chất, liên quan đến chuẩn quốc gia của các cấp học, ban hành chuẩn cho các trường Mầm non, Tiểu học, THCS, THPT. Các văn bản này được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của Chương trình GDPT 2018 và nâng cao hơn về chất lượng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu về phòng học bộ môn, thư viện đạt chuẩn, thiết bị công nghệ thông tin (CNTT), và các tiêu chuẩn về vệ sinh, môi trường học tập an toàn, đảm bảo các trường học, đặc biệt ở khu vực nông thôn, được trang bị đầy đủ thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập theo Chương trình GDPT 2018. Việc đảm bảo thiết bị tối thiểu là điều kiện tiên quyết để trường học đạt chuẩn quốc gia, từ đó xã đạt chuẩn NTM. Các văn bản hướng dẫn chi tiết về các chỉ tiêu trong Tiêu chí 14, ví dụ: chỉ tiêu về tỷ lệ trường đạt chuẩn, tỷ lệ duy trì phổ cập, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, tiêu chí đạt kiểu mẫu. Chẳng hạn: NTM nâng cao có thể yêu cầu tỷ lệ trường đạt chuẩn Quốc gia phải cao hơn (ví dụ: >90% hoặc 100% đối với cấp THCS, Tiểu học), và chất lượng giáo dục phải có sự khác biệt rõ rệt (ví dụ: triển khai thành công mô hình giáo dục thông minh, giáo dục STEM/STEAM, v.v.)
Bên cạnh đó, Bộ GDĐT ban hành, điều chỉnh các chính sách và văn bản hướng dẫn về chất lượng giáo viên và nguồn nhân lực, tập trung vào yếu tố con người, là cốt lõi để nâng cao chất lượng giáo dục. Chính sách về chuẩn nghề nghiệp và bồi dưỡng giáo viên đảm bảo đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đạt chuẩn trình độ đào tạo và có năng lực triển khai Chương trình GDPT 2018, bao gồm: Bồi dưỡng thường xuyên, hướng dẫn về nội dung, hình thức bồi dưỡng giáo viên hàng năm, tập trung vào các module mới của GDPT 2018 và ứng dụng CNTT trong dạy học; Nâng chuẩn trình độ với lộ trình nâng trình độ chuẩn đào tạo của giáo viên các cấp theo Luật Giáo dục, góp phần tăng cường chất lượng đội ngũ tại khu vực nông thôn.
Về chính sách giáo dục hướng nghiệp và phân luồng, đây là chính sách then chốt để thực hiện Tiêu chí 13 thông qua việc tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nông thôn. Bộ GDĐT yêu cầu các trường THCS, THPT tăng cường các hoạt động tư vấn, định hướng nghề nghiệp cho học sinh, khuyến khích học sinh sau THCS lựa chọn tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Các chủ trương về công tác phổ cập giáo dục và chống mù chữ (PCGD-CMC), nhằm duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, đảm bảo mọi người dân nông thôn đều có cơ hội học tập, các quy trình, tiêu chuẩn kiểm tra, công nhận đạt chuẩn PCGD-CMC các cấp, làm cơ sở để các địa phương đánh giá việc đạt chuẩn NTM. Đặc biệt chú trọng đến các giải pháp chống tái mù chữ cho người trong độ tuổi lao động.
Có thể nói, hệ thống văn bản, chính sách do Bộ GDĐT ban hành đã tạo ra một khung pháp lý và kỹ thuật đồng bộ, xuyên suốt từ việc đầu tư cơ sở vật chất (trường chuẩn quốc gia) đến phát triển chất lượng nguồn nhân lực (đội ngũ giáo viên và học sinh). Các văn bản này không chỉ giúp các địa phương có cơ sở để đánh giá, mà còn định hướng chiến lược đầu tư công, lồng ghép hiệu quả các nguồn vốn, nhằm đảm bảo giáo dục và đào tạo thực sự là nền tảng vững chắc để xây dựng nông thôn mới Việt Nam bền vững, văn minh và phát triển toàn diện.
Nguyễn Minh