Đào tạo sinh viên khối ngành STEM: Nghiên cứu trường hợp ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Hoa Kì

Hiện nay, các trường đại học đang đóng góp vào sự phát triển kinh tế cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các quốc gia bằng cách trang bị cho sinh viên những kĩ năng học thuật và năng lực tư duy bậc cao. Theo đó, một trong những xu hướng để phát triển những kĩ năng là đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục STEM. Trong bài báo này, các tác giả sẽ tiến hành so sánh trình độ của hơn 30.000 sinh viên khối ngành STEM tại các trường đại học ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Hoa Kì.

Mục tiêu chính của giáo dục STEM ở bậc đại học là giúp sinh viên đạt được trình độ cao hơn về kĩ năng học thuật và năng lực tư duy bậc cao. Những kĩ năng này góp phần rất lớn vào năng suất của những ngành công nghiệp trong bối cảnh đổi mới. Mặc dù mỗi năm, hàng chục tỷ đô la trên toàn cầu được đầu tư cho sinh viên khối ngành STEM, tuy nhiên rất ít thông tin đề cập đến mức độ hiệu quả và số lượng sinh viên thực sự đạt được những kĩ năng này trong quá trình học đại học.

Thông qua kết quả thu được từ việc đánh giá hơn 30.000 sinh viên khối ngành STEM ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Hoa Kì, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt đáng kể về trình độ kĩ năng và kết quả đạt được giữa các quốc gia, giữa những trường đại học hàng đầu và những trường có vị thế thấp hơn.

Sự khác biệt về trình độ kĩ năng và kết quả đạt được giữa các quốc gia

Khi bắt đầu nhập học, sinh viên ở Trung Quốc và Hoa Kì có năng lực tư duy phản biện tương đương nhau, cao hơn nhiều so với sinh viên năm nhất ở Ấn Độ và Nga. Sinh viên năm nhất ở Trung Quốc có trình độ Toán và Vật lí cao nhất, so với sinh viên năm nhất ở Nga và Ấn Độ. Ngoài ra, sinh viên năm nhất ở Nga có năng lực tư duy phản biện và kĩ năng Toán học cao hơn đáng kể so với sinh viên năm nhất ở Ấn Độ.

Về công tác đào tạo, cải thiện năng lực tư duy phản biện, trong khi kết quả đánh giá sinh viên ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nga cho thấy sự kém hiệu quả, thì sinh viên ở Hoa Kì lại đạt được nhiều thành tựu. Ngoài ra, mức độ cải thiện kĩ năng từ đầu năm thứ nhất đến cuối năm thứ hai ở Trung Quốc là không đáng kể hoặc giảm sút trong môn Toán và Vật lí. Ngược lại, kĩ năng Toán học của sinh viên Ấn Độ và Nga, và môn Vật lí của sinh viên Ấn Độ tăng lên đáng kể.

Sinh viên tại các trường đại học hàng đầu có thành tích tốt hơn không?

Trong hai thập kỷ qua, các nhà hoạch định chính sách ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nga đã tích cực thúc đẩy mục tiêu đưa các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu trong nước trở thành trường đẳng cấp thế giới, điều này dẫn đến sự phân hóa ngày càng tăng của các hệ thống giáo dục đại học. Nhìn chung, các trường ưu tú có đặc trưng là được đầu tư nhiều và có chất lượng đào tạo cao hơn so với các cơ sở giáo dục đại học đại trà, nơi đào tạo phần lớn sinh viên đại học ở hầu hết các quốc gia.

Các tác giả đã quan sát và cho thấy sự khác biệt lớn về năng lực tư duy phản biện cũng như kết quả đạt được kĩ năng học thuật giữa sinh viên trong các trường ưu tú và đại trà trong và ngoài nước. Ví dụ, sinh viên trong các trường ưu tú ở Trung Quốc có trình độ tư duy phản biện và các kĩ năng Toán và Vật lí cao hơn so với sinh viên trong các cơ sở đại học ưu tú ở Ấn Độ và Nga. Đáng chú ý, sinh viên năm nhất tại các cơ sở giáo dục đại trà ở Trung Quốc thể hiện năng lực tư duy phản biện cao hơn đáng kể so với sinh viên năm nhất tại các cơ sở ưu tú ở Ấn Độ (khoảng cách này thu hẹp vào năm 4) và trình độ kĩ năng Toán và Vật lí cao hơn so với sinh viên năm nhất trong các cơ sở ưu tú ở Nga (khoảng cách về kĩ năng Toán học sẽ thu hẹp vào năm 2, điều này không bao gồm môn Vật lí). Nhìn chung, các trường đại học ưu tú ở cả ba quốc gia đều tuyển sinh viên có trình độ kĩ năng cao hơn, nhưng không góp phần nâng cao trình độ kĩ năng của họ, khi so sánh với các trường đại học đại trà.

Khoảng cách giới tính thu hẹp trong quá trình đào tạo kĩ năng

Khi bắt đầu đại học, sinh viên nữ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nga thể hiện năng lực tư duy phản biện tương đương sinh viên nam. Sinh viên nữ năm nhất ở Trung Quốc và Ấn Độ có điểm Toán và Vật lí thấp hơn (không đáng kể) so với sinh viên nam năm nhất. Nữ sinh viên năm nhất ở Nga đạt điểm bằng với sinh viên nam năm nhất trong môn Toán và Vật lí.

Trong hai năm đầu đại học, sinh viên nữ và nam ở cả ba quốc gia đều đạt được những thành tích tương tự trong tư duy phản biện. Khi kết thúc quá trình học, sinh viên nữ ở Ấn Độ và Nga có điểm tư duy phản biện tương đương, trong khi sinh viên nữ ở Trung Quốc đạt điểm thấp hơn so với sinh viên nam. Vào cuối năm hai, sinh viên nữ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nga đạt kết quả môn Toán cao hơn so với sinh viên nam; khoảng cách giới tính ở Trung Quốc và Ấn Độ thu hẹp, còn sinh viên nữ ở Nga vượt trội so với các sinh viên nam.

Các trường đại học dường như đang thu hẹp khoảng cách giới trong môn Toán (ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nga) và năng lực tư duy phản biện (ở Ấn Độ và Nga), điều này có thể tác động đến việc phát triển bình đẳng giới - tăng cường đại diện nữ trong lực lượng lao động STEM. Tuy nhiên, khoảng cách giới tính ban đầu trong môn Toán và Vật lí khi bắt đầu vào đại học cho thấy các quốc gia cần đầu tư nhiều hơn vào việc cải thiện thành tích học tập của học sinh nữ trong môn Toán và Khoa học ở cấp trung học, hoặc khuyến khích sinh viên nữ tham gia các chương trình STEM ở những quốc gia này để giúp học sinh các em có thể đạt thành tích cao hơn. 

Nâng cao chất lượng giáo dục STEM trên toàn thế giới

Tóm lại, nghiên cứu cung cấp những hiểu biết quan trọng về khả năng cạnh tranh toàn cầu của sinh viên đại học STEM ở các quốc gia và các loại hình trường đại học. Sự khác biệt lớn về mức độ cải thiện kĩ năng giữa các quốc gia và các trường nhấn mạnh nhu cầu nghiên cứu nhiều hơn về phát triển kĩ năng trong trường đại học. Thực tế là sinh viên ở những quốc gia và những loại hình cơ sở giáo dục khác nhau phải đối mặt với những thay đổi đáng kể trong phát triển kĩ năng. Kết quả này cho thấy các hệ thống giáo dục đại học, bao gồm cả các cơ sở ưu tú và đại trà, thường không chuẩn bị cho sinh viên những kĩ năng cần thiết để thích ứng với những tiến bộ của công nghệ. Trong nỗ lực cải thiện giáo dục STEM, các trường đại học và các nhà hoạch định chính sách nên nhìn xa hơn và chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên khối ngành STEM.

Vân An lược dịch

Nguồn

Loyalka, P., Liu, O. L., & Chirikov, I. (2021). STEM Student Learning across Countries. International Higher Education, 107, 32-33. https://doi.org/10.36197/IHE.2021.107.15

Bạn đang đọc bài viết Đào tạo sinh viên khối ngành STEM: Nghiên cứu trường hợp ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Hoa Kì tại chuyên mục Nghiên cứu và Công bố quốc tế của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn