Sự thay đổi chính sách giáo dục trong bối cảnh đổi mới giáo dục tại Việt Nam

Bài viết nhấn mạnh sự quan trọng của chính sách để thúc đẩy sự phát triển giáo dục ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Các chủ đề chính bao gồm đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục; cải thiện chất lượng giáo viên; đổi mới quản lý và đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng giáo dục mở và học suốt đời. Các biện pháp được đề xuất như cải thiện nội dung và phương pháp giáo dục; tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng giáo viên và quản lý; xây dựng hệ thống giáo dục linh hoạt, lâu dài.

Nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực và nhân sự giáo dục trong bối cảnh đổi mới giáo dục, một yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước Việt Nam cần có các chính sách quyết định hơn để thực sự đưa giáo dục Việt Nam phát triển.

Từ những khó khăn và thách thức này, Đảng và Nhà nước đã đề xuất định hướng chiến lược cho sự đổi mới cơ bản và toàn diện của giáo dục: (a) Khuyến khích các khía cạnh tích cực và hạn chế các khía cạnh tiêu cực của cơ chế thị trường; (b) Đảm bảo sự hướng dẫn xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo. Điều này cũng đặt ra nhiều vấn đề để thảo luận, cụ thể như sau:

(1) Chính sách đổi mới nội dung giáo dục và phương pháp, đổi mới tổ chức và quản lý đào tạo, cụ thể: Trong quá trình đổi mới giáo dục, cần phải đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng tăng cường cả kiến thức, kỹ năng và phẩm chất của người học. Đối với nội dung, cần liên tục đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa, kết hợp lý thuyết và áp dụng, và thực hành. Về phương pháp, cần củng cố các phương pháp giảng dạy tích cực, kết hợp với phương tiện hiện đại để nâng cao chất lượng bài giảng và tăng tính chủ động và sáng tạo của người học. Dạy người học cách học, tự học. Nâng cao sự sáng tạo, sự nhiệt huyết và sự hứng thú của người học. Đối với quản lý quá trình đào tạo, cần phải mạnh mẽ biến đổi theo các mô hình quản lý đào tạo hiện đại trên thế giới.

(2) Chính sách phát triển giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức giáo viên, và cải thiện thu nhập. Để đảm bảo rằng đội ngũ giáo viên đáp ứng được tiêu chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên-so với học sinh theo yêu cầu của từng cấp độ. Cần có các cơ chế và chính sách để đảm bảo đủ giáo viên cho các khu vực núi và đảo.

(3) Cải thiện chất lượng của giáo viên và quản lý giáo dục. Phát triển đội ngũ giáo viên và quản lý, đáp ứng yêu cầu của cải cách giáo dục và đào tạo; chuẩn hóa và đảm bảo đồng nhất trong cấu trúc giáo viên và quản lý ở trường học. Giáo viên là một trong những yếu tố quyết định thành công của sự đổi mới giáo dục. Do đó, cần tập trung đào tạo và động viên giáo viên để nhiệt huyết với nghề nghiệp, có sự sáng tạo và sự hứng thú; tạo điều kiện cho giáo viên và nhân viên thăm và học hỏi mô hình giảng dạy mới; tích cực xây dựng các mô hình giảng dạy tiêu biểu, đổi mới phương pháp đào tạo năng lực giáo viên để đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới chương trình và thay thế sách giáo trình mới. Cần triển khai đầy đủ chế độ và chính sách cho giáo viên và quản lý trên cả nước, đảm bảo quyền lợi của các cán bộ, công chức,...

(4) Đổi mới quản lý: Hiệu quả triển khai đổi mới quản lý giáo dục, đảm bảo dân chủ, đoàn kết, tăng cường tự chủ, tự trách nhiệm, coi trọng quản lý chất lượng, cải thiện vai trò, trách nhiệm của trưởng cơ sở giáo dục trong quản lý, quản trị và thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao năng lực quản lý trong các cơ sở giáo dục, đáp ứng yêu cầu của sự đổi mới cơ bản và toàn diện trong giáo dục và đào tạo.

(5) Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng "mở" giáo dục, học suốt đời và xây dựng xã hội học tập: Tăng cường đầu tư, phát triển và cải thiện chất lượng và hiệu quả của giáo dục để xây dựng một hệ thống giáo dục dựa trên giáo dục mở, tạo điều kiện học tập cho mọi người. Củng cố cơ sở vật chất và dần dần hiện đại hóa trường học (phòng học, sân chơi, sân tập, phòng thí nghiệm, máy tính kết nối internet, trang thiết bị dạy học và học tập hiện đại, thư viện, ký túc xá).

Toàn cầu hóa là một cơ hội, một xu hướng không thể tránh khỏi, diễn ra ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội hiện đại: Kinh tế, văn hóa, giáo dục, v.v., ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Do đó, đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là đầu tư vào giáo dục con người, mang lại hiệu suất kinh tế cao, tiết kiệm sự khai thác và sử dụng các nguồn lực khác. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng đầu tư vào giáo dục và phát triển nguồn nhân lực mang lại tăng trưởng kinh tế cao nhất và ổn định nhất. Ngược lại, hiệu quả của việc đầu tư vào phát triển con người có sự phân phối bình đẳng, mang lại thêm sự công bằng trong cơ hội phát triển cũng như hưởng lợi từ sự phát triển.

Trong hơn 35 năm (bắt đầu từ năm 1986), giáo dục tại Việt Nam tiếp tục phát triển và đổi mới. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã tạo ra một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của hệ thống giáo dục, tạo ra cơ hội giáo dục cho phát triển con người. Các chính sách quốc gia về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực đã đóng góp vào việc phát triển hệ thống giáo dục, nâng cao cả về chất lượng và số lượng, đảm bảo bình đẳng trong cơ hội nhận giáo dục, làm cho trẻ em hạnh phúc, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số và với những khó khăn về mặt xã hội và kinh tế đặc biệt, để có điều kiện để đi học. Giáo dục tại Việt Nam dần dần phát triển theo xu hướng phát triển chung của thế giới.

Huyền Đức lược dịch

Nguồn: Hoduc, H., Vothanh, H., & Vuhong, V. (2022). The changes in education policy in the context of educational innovation in Vietnam.  Revista on line de Política e Gestão Educacional, e022043-e022043. https://doi.org/10.22633/rpge.v26iesp.1.16772

Bạn đang đọc bài viết Sự thay đổi chính sách giáo dục trong bối cảnh đổi mới giáo dục tại Việt Nam tại chuyên mục Nghiên cứu và Công bố quốc tế của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn