Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ tuân theo cái gọi là tiêu chuẩn và chỉ số “phương Tây” về kết quả học tập và đánh giá danh tiếng, chính sách trong nước lại thay đổi và chuyển sang hướng có vẻ mang tính dân tộc chủ nghĩa, điều này có thể mang lại một số thay đổi trong thực tiễn và tầm quan trọng của việc xếp hạng đại học ở Trung Quốc.
Về bảng xếp hạng ở Trung Quốc: Trung Quốc có hệ thống xếp hạng đại học riêng, chẳng hạn như Xếp hạng học thuật của các trường đại học thế giới (Academic Ranking of World Universities - ARWU) và bảng Xếp hạng đại học và cao đẳng Trung Quốc (China University and College Ranking - CUCR). ARWU, còn được gọi là Bảng xếp hạng Thượng Hải (Shanghai Rankings), là một trong những bảng xếp hạng quốc tế nổi tiếng nhất và bao gồm một số trường đại học Trung Quốc nằm trong số các tổ chức được xếp hạng hàng đầu. Những bảng xếp hạng này thường xem xét các yếu tố như kết quả nghiên cứu, danh tiếng học thuật và hợp tác quốc tế. Ngoài ra, nhiều trường đại học Trung Quốc cũng tham gia vào bảng xếp hạng toàn cầu do các tổ chức như Xếp hạng Đại học Thế giới (QS World University Rankings) và Times Higher Education World University Rankings (THE) đưa ra. Những bảng xếp hạng này xem xét nhiều yếu tố, bao gồm nghiên cứu, giảng dạy, quốc tế hóa, ... Như vậy, bên cạnh việc tham gia vào các bảng xếp hạng đại học quốc tế mang tính “tự phát” của các đại học, Trung Quốc đã có các hệ thống xếp hạng đại học khác nhau. Vấn đề này dường như còn đang được bỏ ngỏ ở Việt Nam, dù rằng, đã có những tài trợ nghiên cứu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề này.
Theo nghiên cứu của Anna L. Ahlers và Stephanie Christmann‑Budian (2023), bảng xếp hạng phát triển như một công cụ chiến lược nội bộ để bắt buộc phát triển cơ sở hạ tầng của hệ thống giáo dục và phân bổ nguồn lực. Nghĩa là, bảng xếp hạng nhằm thực hiện mục tiêu kép: nâng cao chất lượng tổng thể các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở để hỗ trợ, phân bổ nguồn lực (không chỉ là tài chính). Bối cảnh này của Trung Quốc được lí giải bởi hai nguyên nhân: (1) sự thống trị của nhà nước Trung Quốc, bao gồm cả trong các trường đại học và về vị thế của họ trong nước và toàn cầu, và (2) tham vọng và tính toàn diện của việc hoạch định chính sách từ trên xuống trong các lĩnh vực nghiên cứu và giáo dục đại học trong (ít nhất) bốn thập kỷ qua. Rõ ràng, chính sách tiếp cận bảng xếp hạng toàn cầu hiện đang được lãnh đạo Trung Quốc thúc đẩy. Trường hợp của Trung Quốc cho thấy vai trò đặc biệt và mạnh mẽ của nhà nước trong việc khuyến khích và định hướng xếp hạng. Điều này dường như có sự khác biệt so với VIệt Nam, câu chuyện xếp hạng đại học đang có dấu hiệu là hoạt động tự thân của các trường đại học, khi xét tới chính sách thực tế (về yêu cầu, đầu tư nguồn lực, và các chính sách tổng thể trong quốc tế hóa giáo dục đại học).
Ban đầu, Trung Quốc sử dụng bảng xếp hạng để đo lường vị thế của các trường đại học Trung Quốc so với các trường đại học khác trên thế giới và như một nỗ lực để bắt kịp họ (tư tưởng này bắt đầu trong giai đoạn đổi mới giáo dục). Trung Quốc đã đưa ra số liệu thống kê STI quốc gia, bao gồm cả xếp hạng trường đại học, theo sát các ví dụ quốc tế hàng đầu, điều chỉnh chúng cho phù hợp với điều kiện địa phương và phát triển chúng hơn nữa. Dựa trên mô hình thực tiễn xếp hạng đại học có thể quan sát được ở những nơi khác, đặc biệt là Hoa Kỳ, Trung Quốc đã tạo ra bảng xếp hạng toàn cầu đầu tiên, Bảng xếp hạng Thượng Hải, vào năm 2003. Kể từ đó, nhiều bảng xếp hạng quốc tế hơn được tạo ra và thống trị cuộc chơi, và các trường đại học Trung Quốc coi chúng là hiện thân của lý tưởng “các trường đại học đẳng cấp thế giới” và liên tục cố gắng cải thiện thành tích của mình trong “cuộc đua danh tiếng toàn cầu”.
Thành công của Trung Quốc liên quan đến các chỉ số khác nhau được kiểm tra trong bảng xếp hạng, ví dụ, sự phát triển trong các ngành khoa học tạo cơ sở cho sản lượng xuất bản và sự công nhận ngày càng tăng của các trường đại học Trung Quốc. Đồng thời, nhiều xu hướng đang thay đổi trong quản trị đại học, bao gồm hệ thống khuyến khích được tạo ra để nâng cao hiệu suất hoặc nỗ lực làm cho các trường ở Trung Quốc trở nên hấp dẫn hơn đối với sinh viên và nhân viên quốc tế. Ngoài ra, một số nhà quan sát khám phá lý do tại sao danh tiếng toàn cầu của các trường đại học Trung Quốc lại tăng lên đáng kể, vì có những hành vi sai trái được ghi nhận và lý do khiến khoa học “nghi ngờ” đến từ Trung Quốc, bao gồm xu hướng làm giả dữ liệu.
Đồng thời với chính sách về xếp hạng, chính sách đầu tư cũng có vai trò quan trọng trong giáo dục đại học. “Dự án 211,” được triển khai năm 1995, là chương trình lớn đầu tiên của chính phủ trung ương trong thời kỳ cải cách nhằm thúc đẩy giáo dục đại học Trung Quốc và đưa nó lên tầm quốc tế. Tại thời điểm đó, theo các tiêu chí chưa được công bố rõ ràng, ban đầu khoảng 100 trường đại học Trung Quốc đã được chọn để nhận tài trợ ưu đãi thông qua chương trình này. Những trường đại học này sẽ được đầu tư để phát triển thành những trường đại học hàng đầu đạt “tiêu chuẩn quốc tế”. Các trường đại học được chọn chủ yếu tập trung ở Bắc Kinh, Thượng Hải và khu vực ven biển phía đông của đất nước, và họ được kỳ vọng sẽ đạt được các tiêu chuẩn quốc tế cao trong cả giảng dạy và nghiên cứu và do đó đóng vai trò là hình mẫu cho các trường đại học khác ở Trung Quốc.
Năm 2009, chính quyền chính thức tuyên bố cái gọi là “Liên đoàn China Nine (C9)”. Đại diện cho cấp cao nhất của chương trình 985, các trường đại học này liên tục nhận được sự hỗ trợ của chính phủ dựa trên vị trí dẫn đầu trong bảng xếp hạng giáo dục đại học trong nước cũng như về cơ bản là đạt được những vị trí nổi bật hơn trong bảng xếp hạng quốc tế. Một cách nhanh chóng, các trường đại học này đã đẩy mạnh sản lượng khoa học của mình, đặc biệt là về mặt xuất bản, nâng cao hơn nữa vị thế của mình trong bảng xếp hạng đại học quốc tế.
Tiếp đó, năm 2015, “Sáng kiến hạng nhất kép”, hay sáng kiến “song nhất” (Double First-Class Initiative) được ban hành: Xếp hạng đại học ở Trung Quốc: Câu chuyện về sáng kiến “Song nhất” (Double First Class).
Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra rằng, vấn đề xếp hạng đại học là một chủ đề có liên quan đến các yếu tố: (a) cấu trúc của hệ thống khoa học và đặc biệt là mức độ tự chủ của trường đại học, (b) mức độ mà chính sách khoa học và giáo dục đại học (thậm chí cả việc hoạch định chính sách nói chung) gắn liền với việc so sánh định lượng, và (c) sự lựa chọn của các nhà hoạch định chính sách giữa bảng xếp hạng (trong nước hay quốc tế).
Như vậy, xếp hạng đại học quốc gia là một kinh nghiệm cần xem xét cho Việt Nam, tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời với nó là chính sách liên quan đến đầu tư trọng điểm, đầu tư dựa trên xếp hạng và cơ hội, tiềm năng phát triển. Việt Nam cũng đã có những chính sách tương tự, nhưng dường như cần có một cấp độ cao hơn, huy động sức mạnh chính trị mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Thông tin: Đại học Thanh Hoa ở Trung Quốc đã đứng đầu Bảng xếp hạng Đại học Châu Á của Times Higher Education (THE) năm 2023. Ngôi trường có trụ sở tại Bắc Kinh này đã giữ được vị trí dẫn đầu trong năm thứ tư liên tiếp. Ở vị trí thứ hai là một trường khác của Trung Quốc, Đại học Bắc Kinh, cũng đứng thứ hai trong năm thứ tư liên tiếp. Đứng vị trí thứ 3 là Đại học Quốc gia Singapore, trường cũng giữ vững vị trí năm thứ 4 liên tiếp.
Danh sách 10 trường đại học đứng đầu trong THE’s Asia University Rankings 2023
Lương Ngọc – Khánh Hà
Tài liệu tham khảo
Ahlers, A. L., & Christmann-Budian, S. (2023). The politics of university rankings in China. Higher Education, 86(4), 751–770. https://doi.org/10.1007/s10734-023-01014-y
Lin, S. (2013). Why serious academic fraud occurs in China. Learned Publishing, 26(1), 24–27.
Mok, K. H., & Kang, Y. (2021). A critical review of the history, achievements and impacts of China’s quest for world-class university status. In E. Hazelkorn & G. Mihut (Eds.), Research Handbook on University Rankings (pp. 366–381). Edward Elgar.