QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
Theo Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước; là khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước; khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là “để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”(1). Người cũng chỉ rõ, một trong những nhược điểm lớn của Đảng là “trình độ lý luận còn thấp kém… cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm”(2); đối với cán bộ, không học lý luận sẽ khiến cho “chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”(3), “...vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”(4), do không nắm vững lý luận, nên nhiều cán bộ mắc bệnh ba hoa, kết quả là “… một sự ngu dốt này làm phát sinh một sự ngu dốt khác và một sai lầm này gây nên các sai lầm khác”(5).
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ, trong Đảng còn nhiều người “chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa công tác và học tập..”(6), “...chúng ta đã áp dụng một số kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo, không có kết quả, cho nên thiếu tin tưởng đối với sự cần thiết phải học tập lý luận”(7).
Từ thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên còn lười học, ngại học lý luận chính trị, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận”(8), “Đảng ta phải tự nâng cao mình lên nữa, mà muốn tự nâng cao mình thì phải tổ chức học tập lý luận trong toàn Đảng, trước hết là trong cán bộ cốt cán của Đảng”(9).
NHẬN DIỆN THỰC TRẠNG
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có biểu hiện thứ ba: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(10).
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định phải “Khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”(11).
Qua thực tế công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, có thể nhận diện những biểu hiện ngại học, lười học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay là: 1) chỉ chú ý đến học tập chuyên môn, nghiệp vụ mà ít hoặc không quan tâm đến học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị; chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị. Không ít cán bộ, đảng viên cho rằng việc học tập lý luận ít mang lại hiệu quả, dẫn tới học tập đối phó, nghiên cứu qua loa, đại khái, chiếu lệ, hình thức...2) Chưa chấp hành tốt kỷ luật, kỷ cương trong học tập, rèn luyện như trong học tập còn làm việc riêng, vừa học vừa giải quyết công việc của cơ quan, đơn vị; chưa tích cực tham gia trao đổi, thảo luận; không nghiên cứu tài liệu; bài thi, bài thu hoạch thiếu đào sâu suy nghĩ, tìm tòi gắn lý luận với thực tiễn… 3) Học không đi đôi với hành; lý luận chưa gắn liền với thực tiễn. Nội dung, tri thức lý luận chính trị chưa được vận dụng thiết thực vào thực tiễn công tác với tư cách là “cẩm nang” định hướng giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh.
Thực trạng nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Đối với người học, việc xác định mục tiêu, động cơ học tập lý luận chính trị chưa đúng, chưa rõ ràng (coi việc học tập lý luận chính trị cốt để lấy bằng cấp nhằm “hợp lý hóa” điều kiện đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc, thăng tiến); vì chưa có động cơ trong sáng nên thiếu ý thức tự giác trong học tập, rèn luyện.
Đối với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, việc mở rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với quy trình đảm bảo chất lượng. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng còn chậm được đổi mới; việc bổ sung, cập nhật nội dung chương trình còn trùng lặp, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, phong cách lãnh đạo, quản lý. Phương pháp giảng dạy, học tập chậm được đổi mới, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của người học. Thiếu sự liên thông giữa các cấp học, các hệ đào tạo dẫn đến việc cán bộ phải học nhiều lần một số chuyên đề, học phần. Quản lý đào tạo còn có mặt yếu kém, nhất là quản lý tự học của học viên. Chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo còn có mặt hạn chế. Điều kiện vật chất, kỹ thuật ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng còn lạc hậu, chưa được nâng cấp, chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học lý luận chính trị.
Đối với đơn vị cử cán bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng, còn có tình trạng chưa chọn, cử đúng, trúng đối tượng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Việc quy hoạch, lựa chọn cán bộ cử đi học ở một số nơi còn biểu hiện thiếu dân chủ, không khách quan. Còn có sự chồng chéo trong sử dụng cán bộ thực hiện công việc tại cơ quan, đơn vị với tạo điều kiện để học viên toàn tâm, toàn ý trong học tập đối với những cán bộ được cử đi học tập, bồi dưỡng. Chưa có các biện pháp, cách thức kiểm tra, đánh giá việc sử dụng, vận dụng tri thức, kỹ năng, tư tưởng của người được chọn, cử đi học sau khi hoàn thành các khóa đào tạo, bồi dưỡng vào phục vụ công việc thực tiễn của cơ quan, đơn vị.
Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng |
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Để khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay, Đảng ta đã xác định: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trong và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương”(12). Nhằm cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, xuất phát từ thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị thời gian qua, thời gian tới cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò tầm quan trọng của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên. Đây là giải pháp căn cơ, lâu dài để khắc phục “bệnh” lười học, ngại học lý luận chính trị. Chú trọng hơn nữa đến công tác tuyên truyền để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức, hiểu và xác định việc học tập, bồi dưỡng lý luận vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của mình; là nhu cầu tự thân; học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, bền bỉ, không bao giờ là đủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để kiên quyết khắc phục nhận thức coi việc học lý luận chính trị chỉ nhằm mục đích đề bạt, bổ nhiệm.
Thứ hai, đổi mới toàn diện công tác giáo dục lý luận chính trị trong toàn Đảng và hệ thống chính trị. Đây là giải pháp quan trọng, tác động trực tiếp đến các chủ thể của công tác giáo dục lý luận chính trị. Những năm gần đây, chương trình, nội dung cũng như các giáo trình, tài liệu giáo dục lý luận chính trị của Đảng đã có nhiều đổi mới, song, vẫn còn nặng về lý luận chung và những kiến thức tổng quát, mang tầm vĩ mô, trong khi đó, những kiến thức về các chủ trương mới, cách làm hay, sáng tạo ở các địa phương, các cơ quan, ngành nghề, nhất là các kỹ năng giải quyết công việc thực tế của cán bộ, kỹ năng xử lý tình huống chính trị... thường chiếm dung lượng nhỏ. Để giải quyết vấn đề đó, trong thời gian tới, các cơ quan chức năng, học viện, nhà trường, đội ngũ giáo viên, báo cáo viên cần chú trọng nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung theo hướng thiết thực, gắn với thực tiễn sinh động. Theo đó, lý luận chính trị phải góp phần giải quyết, lý giải những vấn đề mới và khó đặt ra từ thực tiễn, cả ở tầm vĩ mô và vi mô cũng như việc vận dụng trong giải quyết những công việc cụ thể.
Lý luận chính trị phải góp phần giải quyết, lý giải những vấn đề mới và khó đặt ra từ thực tiễn, cả ở tầm vĩ mô và vi mô cũng như việc vận dụng trong giải quyết những công việc cụ thể. |
Thứ ba, coi trọng hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, giảng viên lý luận chính trị các cấp về phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn. Đây là vấn đề quan trọng, góp phần trực tiếp nhất để khắc phục tình trạng ngại học, lười học tập lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Theo đó, đội ngũ cán bộ làm công tác này phải là những người có đủ phẩm chất đạo đức và tài năng, chuyên môn. Mỗi cán bộ, giảng viên phải là tấm gương “tự học và sáng tạo”, dày dạn kinh nghiệm thực tiễn, am tường lý luận sâu sắc, có năng lực sư phạm tốt, phương pháp truyền đạt hấp dẫn.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, đổi mới mạnh mẽ đối với cơ sở đào tạo lý luận chính trị, song phải đảm bảo bản chất trường Đảng, cụ thể là:
1) Nhận thức sâu sắc về sứ mệnh, mục tiêu của trường Đảng với sứ mệnh ưu tiên hàng đầu là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cho Đảng và toàn hệ thống chính trị thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ngang tầm nhiệm vụ, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, với sự nghiệp cách mạng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
2) Đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú trọng các mặt:
Về đối tượng đào tạo. Đối tượng đào tạo ở trường Đảng phải là những cán bộ, đảng viên tiêu biểu, tiên tiến; luôn trung thành, phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Việc tiếp cận về đối tượng đào tạo có ý nghĩa quan trọng trong xác định tiêu chuẩn xét tuyển và xác định những tố chất cần được bổ sung khi được tham gia đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện ở trường Đảng.
Về đổi mới nội dung chương trình đào tạo lý luận chính trị. Bên cạnh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc, việc dạy - học ở trường Đảng phải rút ra được lập trường, quan điểm, phương pháp để giải quyết vấn đề thực tiễn đang đặt ra; học tập quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; những kinh nghiệm, tổng kết cách mạng trong nước cũng như thế giới; tinh hoa văn hóa nhân loại, những lý thuyết mới, mô hình thành công trên thế giới để áp dụng sáng tạo, tránh “mò mẫm” trong thực hành, khắc phục “bệnh” giáo điều, xa rời thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Về đổi mới phương pháp đào tạo, huấn luyện cán bộ. Chú trọng nguyên tắc lý luận phải gắn liền thực tiễn. Tăng cường thảo luận, đối thoại, định hướng tư tưởng. Tăng cường sử dụng nguyên tắc tự phê bình và phê bình, tránh dạy - học truyền thụ, nhồi nhét, giáo điều. Đổi mới phương pháp rèn luyện phong cách, bản lĩnh người cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là bản lĩnh chính trị; cách thức giải quyết những tình huống khó, phức tạp trong công tác lãnh đạo, quản lý; phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời.
Về xây dựng đội ngũ giảng viên. Giảng viên trường Đảng phải là đội ngũ những người tinh hoa nhất, đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm với nhiệm vụ. Bằng những quyết sách của Đảng, có thể tuyển chọn những cán bộ giỏi theo các tiêu chí: mẫu mực về bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng; đảm bảo sự “tổng hòa” sư phạm - khoa học - tổng kết thực tiễn. Căn cứ vào yêu cầu về đối tượng, nội dung và phương pháp đào tạo, cần xây dựng bộ tiêu chí cho giảng viên trường Đảng...
Thứ năm, người học phải xác định đúng động cơ, mục đích học tập lý luận chính trị; gắn tri thức lý luận với thực tiễn công tác; không ngừng phấn đấu, tu dưỡng đạo đức cách mạng, trình độ - kỹ năng - phương pháp luận.
Thứ sáu, các cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng cán bộ đi học cần: 1) Quán triệt sâu sắc và cụ thể hoá quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, tạo sự thống nhất trong hệ thống chính trị và các cơ sở đào tạo. 2) Tiếp tục đối mới tư duy, nâng cao nhận thức về mục tiêu, yêu cầu và tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. 3) Gắn việc xây dựng quy hoạch cán bộ với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh của từng giai đoạn. Chọn, cử cán bộ đi đào tạo đúng đối tượng, thiết thực, tránh tốn kém, lãng phí. Thực hiện nghiêm việc phân cấp đối tượng đào tạo gắn với thẩm định tiêu chuẩn cán bộ cử đi đào tạo, bồi dưỡng nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, đúng tiêu chuẩn. 4) Phối hợp chặt chẽ với đơn vị đào tạo tiến hành kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, thực chất quá trình và kết quả học tập của cán bộ, đảng viên được cử đi học; coi trọng và có kế hoạch bố trí, tạo điều kiện để cán bộ vận dụng kết quả học tập vào thực tiễn công tác. Lấy kết quả học tập, ý thức rèn luyện trong quá trình học tập là một tiêu chí để đánh giá cán bộ./.
Nguyễn Vĩnh Thanh - Vũ Văn Hậu
Học viện Chính trị khu vực I
Nguồn tin: tuyengiao.vn
________________________
(1) (2) (6) (7) (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.11, tr.90, 90-91, 94, 94, 91.
(3) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.280, 280.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.274.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.110.
(10) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.28, 36-37.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr.236.