Tháo gỡ các nút thắt để đảm bảo số lượng, nâng cao chất lượng nhà giáo cho vùng khó

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có hàng loạt chủ trương, chính sách đãi nhằm thu hút hơn nữa nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đội ngũ cho các trường vùng khó, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.

Trong đó, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025 theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra nhiệm vụ trọng tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cho các trường phổ thông dân tộc bán trú, nội trú, trường phổ thông có học sinh bán trú. Chương trình đã tạo điều kiện để giáo viên thuận lợi hơn trong công tác, phát triển hơn trong chuyên môn, từ đó gỡ “nút thắt” thiếu giáo viên cho vùng khó.

Khó thu hút giáo viên

Giáo viên là “cỗ máy cái” của ngành giáo dục, là yếu tố then chốt quyết định chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, thiếu giáo viên lại là vấn đề nhức nhối của ngành trong nhiều năm qua, đặc biệt ở các vùng kinh tế-xã hội khó khăn, vấn đề thiếu giáo viên lại càng trầm trọng.

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện cả nước vẫn thiếu trên 102.000 giáo viên các cấp. Tại tỉnh Điện Biên, trước thềm năm học 2025-2026, tỉnh này thiếu 2.076 giáo viên. Cụ thể, bậc mầm non thiếu 915 giáo viên, tiểu học thiếu 522 giáo viên, trung học cơ sở thiếu 406 giáo viên và trung học phổ thông thiếu 233 giáo viên. Tại Lạng Sơn, tỉnh phải gấp rút phê duyệt hơn 1.600 chỉ tiêu lao động hợp đồng cho ngành giáo dục để đảm bảo công tác dạy và học năm học 2025-2026.

Tại Tuyên Quang, theo báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo, toàn tỉnh có 1.054 trường học với 1.803 điểm trường lẻ, trong đó có 78% học sinh là người dân tộc thiểu số và 36,3% học sinh đang theo học tại các trường nội trú, bán trú. Toàn tỉnh hiện còn thiếu hơn 1.300 giáo viên so với số được giao và thiếu gần 3.800 giáo viên so với định mức quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo viên ở một số môn học thiếu nguồn tuyển dụng, đặc biệt là môn Tiếng Anh, Tin học, Toán.

Trong ba năm qua, nhiều trường học ở Tuyên Quang phải học tiếng Anh theo hình thức kết nối trực tuyến với các giáo viên ở Hà Nội vì không có giáo viên trực tiếp đứng lớp. Tương tự, tại Lào Cai, nhiều trường cũng phải huy động sự hỗ trợ dạy online với các giáo viên từ nhiều các vùng xuôi như Nam Định, Hà Nội… Nhiều trường buộc phải dựa vào đội ngũ giáo viên biệt phái như Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Lao Chải, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Khao Mang, Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học-Trung học cơ sở Mồ Dề… Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học Nậm Khắt may mắn hơn khi có một nữ giáo viên Tiếng Anh nhưng luôn trong tình trạng quá tải khi một mình cô phải dạy cho gần 500 học sinh.

 

Thu hút giáo viên luôn là một thách thức với các trường vùng cao do điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn. (Ảnh: PV)

Theo ông Mạc Trọng Khang, Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai cho hay trước thực trạng thiếu giáo viên ở các trường vùng khó, đặc biệt là các xã thuộc huyện 30A cũ như Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Si Ma Cai, Bắc Hà, Mường Khương, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai đã ưu tiên phân công giáo viên cho các trường này, thực hiện biệt phái giáo viên đồng thời tuyên truyền rộng rãi để thu hút nguồn tuyển. Tuy nhiên, việc tuyển dụng giáo viên cho vùng khó cũng là một thách thức khi xa xôi về địa lý, thiếu thốn về điều kiện sinh hoạt, chế độ đãi ngộ còn thấp.

Tại Lai Châu, Phó Chủ tịch Thường trực Uỷ ban Nhân dân tỉnh Lai Châu Tống Thanh Hải cho hay hiện tỉnh còn thiếu 1.565 biên chế giáo viên so với định mức; nhiều trường thiếu phòng học, thiết bị và phòng bộ môn. Việc xây dựng trường liên cấp khu vực biên giới gặp khó khăn do chưa có vốn Trung ương. Địa bàn Lai Châu rộng, dân cư phân tán, nhiều điểm trường nhỏ lẻ; một số môn học khó tuyển dụng, khó thu hút và giữ chân giáo viên công tác lâu dài ở vùng cao, biên giới. Để khắc phục tình trạng này, Lai Châu đã triển khai các giải pháp cụ thể như sắp xếp điểm trường, điều động – kiêm nhiệm giáo viên, hợp đồng giáo viên theo Nghị định 111/2022/NĐ-CP, dạy học trực tuyến và huy động nhiều nguồn vốn đầu tư.

Việc thiếu giáo viên đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học ở các nhà trường, là một trong những nguyên nhân khiến khoảng cách giáo dục giữa miền xuôi và miền ngược còn khá lớn.

Gỡ các nút thắt để thu hút nhà giáo

Theo các chuyên gia giáo dục, để thu hút nhà giáo cho các vùng khó khăn cần có chế độ chính sách đãi ngộ xứng đáng, đẩy mạnh xây dựng trường lớp, nhà công vụ để tạo điều kiện thuận lợi trong công tác cho nhà giáo, tạo điều kiện để thầy cô được bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ.

Học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Khao Mang (Lào Cai) trong giờ học tiếng Anh trực tuyến. (Ảnh: PV)

Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo chỉ rõ “chế độ, chính sách đối với nhà giáo còn nhiều bất cập”, “có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, nhóm đối tượng”. Theo đó, để đạt mục tiêu đột phá phát triển giáo dục, đưa giáo dục Việt Nam lọt tốp 20 nền giáo dục tốt nhất thế giới vào năm 2045, hai trong 8 giải pháp đột phá được đưa ra liên quan trực tiếp đến giáo viên. Đó là đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo; tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất trường lớp đạt chuẩn.

Trong đó, Nghị quyết nêu rõ: nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên mức 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây được đánh giá là những con số “mơ ước” khi phụ cấp giáo viên vùng khó khăn hiện nay cao nhất mới chỉ ở mức 50%. Nghị quyết cũng yêu cầu “bố trí đủ số lượng giáo viên”, “xây dựng nhà công vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên ở xa tới công tác”, “tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng, kiên cố hóa, hiện đại hóa trường lớp, đảm bảo đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đạt chuẩn…”

Trước đó, trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2025 của Chính phủ cũng đã triển khai nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất cho vùng khó.

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến hết 31/3/2025, dự án đã đầu cơ cơ sở vật chất cho các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh ở bán trú trên trên 735.000 trang thiết bị dạy học; hơn 1.100 phòng công vụ giáo viên; gần 5.658 phòng ở cho học sinh; 373 phòng quản lý học sinh bán trú, nội trú; hơn 5.000 phòng học cùng hàng nghìn công trình khác như nhà ăn, nhà bếp, nước sạch, nhà sinh hoạt, sân chơi, bãi tập…

Ước tính đến tháng 12/2025, tổng số công trình được dự án đầu tư cho các trường sẽ tăng lên hơn gần 1 triệu trang thiết bị dạy học; 1.200 phòng công vụ giáo viên; hơn 6.000 phòng ở cho học sinh; gần 400 phòng quản lý học sinh; gần 5.500 phòng học…

 

Dự án cũng triển khai hoạt động nâng cao nghiệp vụ cho nhà giáo với 75 lớp học bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ đã được tổ chức cho hơn 3.700 người. Dự kiến đến hết năm 2025, số lớp bồi dưỡng sẽ tăng lên 93 lớp với gần 4.700 người được bồi dưỡng. Các hoạt động này đã góp phần nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cho các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú.

Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị trong giai đoạn 2 của dự án (từ năm 2025 đến 2030), các địa phương tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho các trường để đảm bảo tốt việc dạy học, hướng đến dạy học 2 buổi/ngày, đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo điều kiện ăn, ở, sinh hoạt cho học sinh tại các trường phổ thông có học sinh ở nội trú. Trong đó, ưu tiên đầu tư xây dựng trường dân tộc nội trú cho tộc thiểu số sinh sống nhưng chưa có trường hoặc phải đi thuê địa điểm để tổ chức các hoạt động giáo dục. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh ở bán trú.

 

Mai Phạm

 

 

 

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

Phòng, chống COVID-19