Giáo viên là yếu tố then chốt quyết định chất lượng giáo dục. Do đó, vấn đề đảm bảo số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ luôn được ngành giáo dục đặc biệt quan tâm, nhất là đối với khu vực miền núi, nơi học sinh chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, tiếng Việt không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ.
Từ thực tế này, trong kế hoạch triển khai dự án nâng cao chất lượng giáo dục miền núi thuộc chương trình Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025 theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn học liệu về văn hóa các dân tộc thiểu số theo vùng miền để cấp phát đến các nhà trường, tập huấn về dạy học tiếng dân tộc thiểu số.
Thầy cô đi học vì trò
Thầy Lê Viết Minh, giáo viên Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Lâm Hóa (tỉnh Quảng Trị) vẫn nhớ ngày đầu tiên nhận công tác tại bản Chuối, xã Lâm Hóa (cũ), nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Mã Liềng. Những ngày đầu tiếp xúc với bà con, thầy vô cùng bỡ ngỡ khi những người dân ở đây hầu như không biết tiếng phổ thông, mọi sinh hoạt đều dùng ngôn ngữ riêng, khiến việc giao tiếp gần như bất đồng hoàn toàn.
“Công việc giảng dạy vì thế trở nên vô cùng khó khăn: học sinh chua từng biết chữ, chỉ quen nói tiếng địa phương. Bước chân vào lớp học, tôi vừa lạ lẫm vừa lo lắng, tự hỏi làm sao có thể truyền đạt kiến thức khi khoảng cách ngôn ngữ và văn hóa còn quá lớn”, thầy Minh chia sẻ.
Ngày đêm suy nghĩ, thầy Minh hiểu rằng chỉ khi hòa nhập được với văn hóa, nói được tiếng nói của người dân nơi đây mới có thể làm tốt được việc “gieo chữ trồng người”. Ban ngày lên lớp, ban đêm thầy tranh thủ đến nhà chơi cùng dân bản. Thầy thường đến gặp già làng, trưởng bản và một số bà con biết chút ít tiếng phổ thông để học hỏi, trao đổi, trong túi luôn mang sẵn cuốn vở và cây bút để ghi chép cẩn thận từng từ ngữ của đồng bào.
Những buổi tự học đó không chỉ giúp thầy hiểu được ngôn ngữ của học trò mà còn thấy hiểu được những khó khăn trong cuộc sống của các em, từ đó kết hợp thực tiễn với kiến thức sư phạm để lồng ghép trong những bài dạy Toán, Tiếng Việt vừa gần gũi, vừa hiệu quả.

Cô Nguyễn Thị Huyền và các học trò trong giờ học giới thiệu về bản thân. (Ảnh: NVCC)
Với cô Nguyễn Thị Huyền, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị), sinh ra và lớn lên ở xã Trường Sơn, nơi dân tộc Bru -Vân Kiều sinh sống là chủ yếu, nhưng cô vẫn không biết tiếng Bru - Vân Kiều cho đến khi trở thành một giáo viên trên chính mảnh đất này.
Ngày tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Huế, cô trở lại mái trường nơi mình từng học để tiếp tục hành trình gieo chữ và nhận nhiệm vụ giảng dạy tại điểm trường bản Sắt xa xôi hẻo lánh, nơi con đường đến lớp quanh co, mùa mưa trơn trượt và hiểm trở. Điểm trường không có điện lưới, không có sóng điện thoại, đêm xuống chỉ có ánh trăng và ngọn đèn dầu leo lét toả chút ánh sáng vàng vọt xuống trang giáo án. Lớp học mượn tạm nhà văn hóa của bản, mái tôn thấp nên mùa mưa thì tối không nhìn thấy chữ để đọc, mùa nắng học sinh nhễ nhại mồ hôi vì nóng.
Nhưng khó khăn lớn nhất với cô giáo trẻ là rào cản ngôn ngữ khi đa số các em giao tiếp bằng tiếng Bru – Vân Kiều. Những cô cậu học trò nhỏ ngước nhìn cô bằng những ánh mắt ngây thơ, nhút nhát. Và chính những ánh mắt ấy đã trở thành động lực để cô tích cực học tiếng Bru – Vân Kiều. Ban ngày miệt mài đứng lớp, ban đêm, dưới ánh sáng đèn dầu, cô lại kèm thêm cho những em còn chậm, hay đến từng nhà vận động phụ huynh cho con đi học.
“Có những lúc mệt mỏi, nhưng chỉ cần nghe tiếng tiếng đọc ê a của học trò, nhìn ánh mắt sáng lên niềm vui khi hiểu được một phép tính hay viết trọn vẹn một câu văn, tôi lại có thêm động lực để bước tiếp. Tôi tin rằng chỉ bằng tình yêu nghề, sự kiên trì và nhiệt huyết của tuổi trẻ, mình mới có thể gieo mầm tri thức, để rồi từ những mầm xanh ấy, tương lai của các em sẽ dần đổi khác”, cô Huyền xúc động nói.
Khó khăn cũng là lợi thế
Kể về những năm tháng đầu tiên đến với vùng cao, thầy Hoàng Văn Hải, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Mường Lạn (tỉnh Sơn La) bảo đã có những ngày nản lòng, muốn bỏ cuộc bởi thực tế quá khó khăn so với tưởng tượng. Nơi thầy đến công tác đầu tiên là Trường Tiểu học Dồm Cang, đối lập với bao ước mơ, hoài bão tuổi trẻ, trước mắt thầy là ngôi trường đơn sơ, nhà công vụ tạm bợ, không sóng điện thoại, 100% học sinh là người dân tộc thiểu số Thái, Mông, Khơ Mú, ú ớ tiếng Việt. Nhưng rồi chính ánh mắt thơ ngây của những học trò dân tộc thiểu số ấy đã níu kéo thầy giáo người Kinh vùng xuôi.

Học sinh điểm trường Huổi Pá, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Mường Lạn (tỉnh Sơn La) trong giờ học tiếng Việt.
Để có thể hiểu được học trò, thầy quyết tâm học tiếng địa phương. Do phần lớn học sinh là dân tộc Thái, thầy bắt đầu vào bản học tiếng Thái, cùng bà con lên nương làm rẫy, cẩn thận ghi chép từng từ mới vào cuốn sổ nhỏ. Ngôn ngữ đã thành chiếc cầu nối giữa thầy và trò.
Ngày chuyển về Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Mường Lạn, thầy Hải lại đứng trước thách thức về ngôn ngữ khi các học trò ở điểm trường thầy công tác 100% học sinh là người dân tộc Mông. “Tôi lại bắt đầu từ con số 0, mang sổ, bút đi học tiếng Mông”, thầy Hải cười nói. Thầy cho hay việc học tiếng đồng bào dân tộc thiểu số có thuận lợi là sẵn môi trường giao tiếp, học từ phụ huynh, từ những đồng nghiệp là người dân tộc thiểu số địa phương, học từ chính những học trò, bắt đầu từ những từ ngữ cơ bản trong sinh hoạt hàng ngày.
Cũng theo thầy Hải, giáo viên vùng xuôi không thông thạo tiếng dân tộc tuy có khó khăn nhưng cũng là một lợi thế vì khi đó, ngôn ngữ được sử dụng trong lớp học sẽ gần như hoàn toàn là tiếng Việt, tạo môi trường giao tiếp bắt buộc để học sinh có thể học tiếng Việt nhanh hơn trong khi các giáo viên người dân tộc thiểu số sẽ có xu hướng sử dụng tiếng dân tộc để trao đổi trong các tình huống học trò chưa hiểu.
“Từ thực tế dạy học lớp 1, 2 ở các điểm trường vùng cao, tôi cho rằng nên đưa giáo viên người Kinh vào dạy lớp 1, 2 ở các trường phổ thông dân tộc. Khi các em có nền tảng tiếng Việt tốt, việc tiếp thu các kiến thức đa dạng hơn từ lớp 3 sẽ thuận lợi hơn. Với các học sinh nội trú, điều này càng quan trọng vì các em cần kỹ năng giao tiếp tiếng Việt tốt”, thầy Hải nói.
Mai Phạm