Năm 2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng trong việc tái cấu trúc giáo dục đại học khi nhiều văn bản pháp lý có hiệu lực. Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến sẽ triển khai việc sáp nhập, chuyển đổi, giải thể các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp không đạt chuẩn hoặc nhỏ, yếu từ năm 2026. Chủ trương lớn này được Bộ Chính trị khẳng định trong Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Theo Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hồi tháng 02/2025, sẽ hình thành các trung tâm giáo dục đại học lớn, khoảng 50 đến 60 cơ sở giáo dục đại học đào tạo tới trình độ tiến sĩ; sắp xếp thu gọn một số cơ sở giáo dục đại học công lập; tổ chức lại các trường đại học sư phạm về thể dục, thể thao, nghệ thuật. Tái cấu trúc và phát triển các trường đại học thành các cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm là công nghệ và kỹ thuật.

Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến sẽ triển khai việc sáp nhập, chuyển đổi, giải thể các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp không đạt chuẩn hoặc nhỏ, yếu từ năm 2026 (Ảnh: Internet)
Sắp xếp, sáp nhập các trường đại học là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ khó, cần tầm nhìn dài hạn, quyết tâm chính trị và xem xét nhiều yếu tố: quyền lợi người học, ổn định đội ngũ, lịch sử phát triển các trường và đặc biệt là chất lượng đào tạo. Nhiều địa phương, đặc biệt là nơi có hệ thống đại học phát triển như Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội… đang phải đối mặt với bài toán làm sao để cân bằng giữa yêu cầu quy hoạch tập trung và thực tiễn cơ sở vật chất đã ổn định từ nhiều thập niên.
Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trò chuyện với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo để tìm hiểu rõ hơn về những yêu cầu và thách thức trong tiến trình này.
Thưa Phó Giáo sư, trong bối cảnh hiện nay, sáp nhập và tổ chức lại mạng lưới trường đại học được xem là một chủ trương lớn. Là người từng chứng kiến nhiều giai đoạn chuyển mình của ngành Giáo dục nước nhà, xin ông chia sẻ quan điểm về chủ trương này.
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Có thể nói, năm 2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng trong việc tái cấu trúc giáo dục đại học khi nhiều văn bản pháp lý có hiệu lực. Có thể kể đến Quyết định 452/QĐ-TTg ngày 27/02/2025 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo cũng nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là hiện đại hoá giáo dục đại học; sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn. Mục tiêu là đưa các trường đại học phát triển với tốc độ nhanh, mạnh hơn, định hướng rõ ràng, tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao cho các lĩnh vực đất nước đang cần. Cùng với đó là nhiều hướng dẫn chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về sắp xếp hệ thống trường sư phạm và đại học vùng. Trong nhiều năm qua, chúng ta bàn nhiều về phân tầng đại học, về tập trung nguồn lực, xây dựng những trung tâm đào tạo lớn, nhưng thiếu một “bản thiết kế tổng thể”, thiếu một khung pháp lý mạnh mẽ để quy định rõ trách nhiệm của bộ, ban ngành, của các địa phương. Vì vậy, ý nghĩa lớn nhất của những văn bản pháp lý thời gian qua là đặt hệ thống giáo dục đại học vào một trật tự mới, dựa trên các nguyên tắc:
Thứ nhất: Tập trung - tinh gọn - tránh dàn trải
Thứ hai: Phát triển theo vùng, theo nhóm ngành ưu tiên quốc gia
Thứ ba: Hình thành những đại học mạnh đủ sức cạnh tranh quốc tế
Thứ tư: Gắn đào tạo với nhu cầu nhân lực trung và dài hạn của đất nước
Điểm đáng chú ý của quy hoạch lần này là quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể: Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm điều phối chung; các địa phương có trách nhiệm rà soát, sắp xếp; các trường có trách nhiệm tự đánh giá năng lực và công bố điều kiện đảm bảo chất lượng theo quy định. Đây là điểm mới so với trước đây, khi phần lớn các đề xuất sáp nhập chỉ dừng ở mức khuyến nghị.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng đề án sáp nhập, giải thể các trường đại học, dạy nghề không đạt chuẩn, dự kiến trình Chính phủ phê duyệt trong năm nay để triển khai từ 2026. Phó Giáo sư đánh giá thế nào về tính cấp thiết của các hướng dẫn này, đặc biệt trong bối cảnh nhiều trường còn chồng chéo nhiệm vụ và manh mún về nguồn lực?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Tôi cho rằng các văn bản hướng dẫn cần kịp thời để tạo dựng hành lang pháp lý cần thiết cho thực tiễn triển khai. Chủ trương quy hoạch dù tốt đến đâu nhưng nếu không được cụ thể hoá bằng những hướng dẫn kỹ thuật thì các địa phương và các trường đại học sẽ rất khó thực hiện.
Tôi lấy ví dụ về hệ thống trường sư phạm. Hiện nay, chúng ta có quá nhiều cơ sở sư phạm nhỏ, đào tạo với số lượng sinh viên hạn chế, đội ngũ giảng viên không đủ dày, thiếu phòng thí nghiệm sư phạm, thiếu cơ sở thực hành, thậm chí có nơi không tuyển sinh được nhưng vẫn tồn tại. Việc sáp nhập các trường này vào các đại học lớn là tất yếu, nhưng nếu không có hướng dẫn cụ thể thì sẽ rất dễ gây xáo trộn và lo lắng trong đội ngũ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang chủ trương điều chỉnh theo hướng giảm bớt những nội dung can thiệp trực tiếp, thực hiện phân cấp, phân quyền, uỷ quyền nhiều hơn. Nguyên tắc là “nắm chắc cái cần nắm, buông dứt khoát cái cần buông”. Các trường được trao quyền tự chủ mạnh mẽ hơn trong học thuật, tài chính, khoa học, đào tạo nhưng trách nhiệm quản trị cũng phải rõ ràng. Như vậy, đây không phải việc làm cơ học mà dựa trên phân tích khoa học, tính toán nhu cầu nhân lực từng ngành, tránh để địa phương nào cũng “giữ trường cho bằng được” theo tư duy nhiệm kỳ.
Một trong những thách thức khi thực hiện sáp nhập các trường đại học, đó là có thể “hoà tan” thương hiệu học thuật được gây dựng hàng chục năm, đồng thời ảnh hưởng đến quyền tự chủ học thuật của từng trường. Theo Phó Giáo sư, đâu là giới hạn cần được bảo vệ và đâu là những giá trị cần phải sẵn sàng tái cấu trúc trong bối cảnh mới?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Những lo ngại này là hoàn toàn có căn cứ. Để giải quyết những lo lắng trên, cần hiểu đúng bản chất của quá trình sáp nhập và mô hình đại học đa ngành - đa lĩnh vực.
Truyền thống của một trường đại học không nằm ở tên gọi, mà nằm ở học thuật, đội ngũ giảng viên và chất lượng đào tạo. Khi sáp nhập vào một đại học lớn, nếu cơ chế quản trị được thiết kế tốt, trường hoàn toàn có thể giữ lại bộ môn, khoa, chương trình, hệ thống giá trị đã được vun đắp qua nhiều thập kỷ. Nhiều đại học hàng đầu thế giới cũng được hình thành từ các trường thành viên hợp lại, nhưng bản sắc vẫn rất rõ. Một ví dụ điển hình là hệ thống đại học của bang Califonia (UC), Mỹ, có 9 trường thành viên. Đây là hệ thống trường công lập danh tiếng, bao gồm các trường đại học nghiên cứu hàng đầu như UC Berkeley, UCLA và UCSD. Mặc dù cùng chung hệ thống UC, nhưng mỗi trường nổi bật với các đặc điểm riêng về STEM, nhân văn và khoa học xã hội. Chính điều này đã tạo nên sự đa dạng ngành nghề, cung cấp nhiều cơ hội thực tập, nghiên cứu và hỗ trợ phát triển nghề nghiệp cho sinh viên trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Về quyền tự chủ, tôi muốn nhấn mạnh rằng: Tự chủ không phụ thuộc vào việc trường đứng riêng hay nằm trong một đại học, tự chủ phụ thuộc vào khung pháp lý, cơ chế phân quyền và minh bạch trong quản trị. Nhiều trường nhỏ không đủ điều kiện tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất thì tự chủ chỉ là khái niệm trên giấy tờ. Khi sáp nhập, trường sẽ có thêm nguồn lực, thêm cơ hội hợp tác nghiên cứu, thêm đội ngũ mạnh để phát triển học thuật.
Cơ sở vật chất cũng là bài toán cần giải quyết khi thực hiện sáp nhập. Tôi ví dụ ở Đà Nẵng, hiện có các trường như Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Tường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Ngoại ngữ… đều có cơ sở vật chất rộng rãi, nhiều khuôn viên được đầu tư khang trang. Trong khi đó, theo quy hoạch tại Quyết định số 1057/QĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 1997 dự kiến dồn toàn bộ các trường vào khu đại học tập trung thành Làng Đại học Đà Nẵng có quy mô 300ha. Mô hình tập trung đó phù hợp với bối cảnh trước đây. Nhưng hiện nay, khi các cơ sở đã ổn định, giá trị tài sản lên đến hàng nghìn tỷ đồng, câu hỏi đặt ra là: Có cần phá bỏ hết để di dời về mặt cơ học không? Nếu nhất thiết phải di dời, làm sao để không làm ảnh hưởng việc dạy và học, cũng như không làm lãng phí nguồn lực? Trong khi đó, cơ chế quản trị hiện đại cho phép quản lý tập trung không cần ngồi cùng một chỗ. Bộ máy tài chính - hành chính có thể tập trung một đầu mối, nhưng việc giảng dạy có thể diễn ra ở nhiều cơ sở, thậm chí cách xa nhau nhưng kết nối nhờ công nghệ thông tin.

Như vậy, việc quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học đang đặt ra yêu cầu tái cấu trúc toàn diện, nhưng cũng làm nảy sinh nhiều băn khoăn về lộ trình và cơ chế thực thi. Theo Phó Giáo sư, làm thế nào để quá trình sáp nhập diễn ra hiệu quả, không làm gián đoạn hoạt động đào tạo và vẫn giữ được bản sắc, thế mạnh riêng của từng cơ sở?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Tôi cho rằng cần phải có lộ trình khoa học và minh bạch. Trong đó, mỗi giai đoạn phải có tiêu chí đánh giá cụ thể:
Giai đoạn 1 (2025-2026):
- Rà soát toàn bộ điều kiện đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn kiểm định mới.
- Đánh giá năng lực đội ngũ giảng viên.
- Công bố công khai những trường không đủ điều kiện hoặc có nguy cơ không đảm bảo chất lượng.
- Tổ chức tham vấn với tập thể giảng viên, sinh viên.
Giai đoạn 2 (2026-2028):
- Triển khai sáp nhập theo từng nhóm ngành ưu tiên.
- Áp dụng cơ chế đặc thù cho các trường y dược, nghệ thuật, sư phạm.
- Bảo đảm không gián đoạn đào tạo, không làm giảm chỉ tiêu ngành thiếu nhân lực.
Gia đoạn 3 (từ 2028):
- Đánh giá độc lập bởi tổ chức kiểm định trong và ngoài nước.
- Điều chỉnh mô hình quản trị nếu phát sinh bất cập.
- Công bố báo cáo thường niên để xã hội theo dõi.
Lộ trình này giúp giảm thiểu rủi ro và tạo sự đồng thuận trong xã hội. Nếu làm vội vàng, làm theo phong trào, chắc chắn sẽ gây xáo trộn lớn, làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và quyền lợi người học.
Phó Giáo sư có đề cập tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học phải đi cùng với kiểm định chất lượng. Xin Phó Giáo sư chia sẻ thêm về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ này và ý nghĩa của chúng đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Có thể nói, kiểm định chất lượng đóng vai trò như một “điểm tựa”, chỉ dựa trên kiểm định mới xác định được trường nào đủ điều kiện để tồn tại độc lập, trường nào cần sáp nhập, trường nào phải dừng tuyển sinh để tái thiết.
Việt Nam hiện đã có bộ tiêu chí kiểm định mới theo Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định về kiểm định chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, có tham chiếu hệ thống AUN-QA và một số tiêu chuẩn châu Âu. Việc kết hợp giữa kiểm định trong nước và mời tổ chức quốc tế tham gia đánh giá một số đại học trọng điểm sẽ giúp quá trình tái cấu trúc minh bạch và giảm nghi ngại.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng kiểm định phải thực chất, tránh hình thức, tránh “chạy theo giấy chứng nhận”. Kiểm định phải xem xét kỹ chương trình đào tạo, năng lực nghiên cứu, tỷ lệ việc làm của sinh viên, hiệu quả quản trị tài chính. Chỉ khi kiểm định được thực hiện nghiêm túc, thì việc sáp nhập mới có cơ sở khoa học để thực hiện.
Theo Phó Giáo sư, để một cuộc sáp nhập thực sự trở thành cơ hội nâng cao chất lượng, không gây bất ổn, cần thiết lập những nguyên tắc và chính sách bảo vệ nào đối với sinh viên và đội ngũ giảng viên?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Tổ chức lại mạng lưới đại học không thể dựa trên tư duy cũ mà cần dựa vào các điểm sau:
- Hiệu quả thực chất, không chỉ sáp nhập về mặt cơ học.
- Dựa vào điều kiện đặc thù của từng địa phương.
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý và đào tạo.
- Đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực theo chuẩn quốc tế.
- Sử dụng hiệu quả tài sản và cơ sở vật chất hiện hữu, tránh lãng phí.
Theo tôi, điều quan trọng là phải đặt người học làm trung tâm của mọi sự thay đổi. Các trường phải cam kết không làm thay đổi chương trình đào tạo của sinh viên đang học, không gây gián đoạn xét tốt nghiệp, các chứng chỉ, bằng cấp vẫn phải được công nhận đúng thời hạn.
Về đội ngũ, tôi cho rằng cần có cơ chế đánh giá công bằng và hỗ trợ chuyển đổi, đặc biệt đối với giảng viên lớn tuổi hoặc giảng viên tại các trường nhỏ. Nhà nước nên có quỹ hỗ trợ chuyển đổi mô hình để giúp các trường đầu tư cơ sở vật chất, nghiên cứu và đào tạo lại đội ngũ sau khi sáp nhập.
Truyền thông cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nếu không tuyên truyền rõ, dễ gây hiểu lầm rằng sáp nhập là “giải thể”, “cắt giảm”, trong khi bản chất của chủ trương này là nhằm mục đích nâng tầm chất lượng.
Nếu làm đúng cách, bài bản và minh bạch, thì quá trình sáp nhập sẽ là bước tiến dài trong việc hình thành một hệ thống đại học mạnh, đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển quốc gia trong giai đoạn mới.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Phó Giáo sư!
Hà Giang