Từ đầu những năm 1990, khi hệ thống giáo dục đại học Việt Nam còn manh mún, phân tán, rất nhiều trường đại học quy mô nhỏ, đơn ngành, thiếu liên kết dẫn đến khó khăn trong việc phát triển nghiên cứu, đào tạo đa ngành và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc hình thành các đại học đa lĩnh vực bao gồm hai Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và ba đại học vùng (hiện gồm Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng) là nỗ lực của Nhà nước nhằm xây dựng các trung tâm tri thức lớn, đa ngành, đủ năng lực nghiên cứu, đào tạo liên ngành, điều phối chiến lược phát triển vùng và quốc gia.
Trong nhiều thập kỷ, đại học vùng đã thực hiện vai trò là “cơ chế tích hợp và chia sẻ nguồn lực”: tập hợp các trường, khoa chuyên ngành khác nhau thành một hệ thống chung, nhằm khai thác hiệu quả cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, đội ngũ giảng viên, nguồn lực nghiên cứu mà trường đơn lẻ khó có được. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thế giới chuyển sang kinh tế tri thức, khoa học công nghệ phát triển nhanh, các vấn đề học thuật - thực tiễn đòi hỏi mô hình đại học có khả năng đa ngành, liên ngành và kết nối rộng: nghiên cứu liên ngành, hợp tác doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ, đào tạo sau đại học. Đại học vùng là cơ chế sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đó. Điều quan trọng là mô hình cần được tái thiết và củng cố để phù hợp với yêu cầu mới.

Hình thành các đại học đa lĩnh vực là nỗ lực của Nhà nước nhằm xây dựng các trung tâm tri thức lớn, đa ngành, đủ năng lực nghiên cứu, đào tạo liên ngành, điều phối chiến lược phát triển vùng và quốc gia (Ảnh: website Đại học Huế)
Những vấn đề hiện hữu trong bối cảnh hiện nay
Dù có nhiều ý nghĩa chiến lược, mô hình đại học vùng ở Việt Nam vẫn gặp khó khăn. Hiện nay, các đại học vùng hiện vẫn hoạt động theo mô hình “liên hiệp các trường chuyên ngành”, chưa thực sự là đại học đa lĩnh vực theo tiêu chuẩn quốc tế. Trường thành viên mặc dù thuộc chung hệ thống, nhưng hầu như hoạt động độc lập từ đào tạo, quản trị, đến chương trình học. Cơ chế quản trị - phân quyền, phân cấp chưa rõ ràng: có hiện tượng chồng chéo giữa cấp đại học vùng và các trường thành viên; nhiều thủ tục, quản lý hành chính; thiếu tự chủ thực chất cho các đơn vị thành viên. Hệ thống “đại học trong đại học” cần cơ chế để phát huy các ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực như kết hợp chương trình liên ngành, điều phối nghiên cứu lớn, tận dụng hiệu quả quy mô chung.
Như vậy, để mô hình đại học vùng phát huy được vai trò chiến lược như kỳ vọng, cần thêm các chính sách điều chỉnh cơ chế vận hành, phân quyền, tự chủ, chi phối quyền lợi giữa đơn vị thành viên và cấp đại học vùng. Điều này đã được đề cập tới trong một số chính sách như Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo nhấn mạnh yêu cầu rà soát, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học sao cho phù hợp, đồng thời hướng đến việc xoá bỏ cấp trung gian trong hệ thống quản lý các cơ sở giáo dục đại học; Quyết định số 452/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 định hướng phát triển mạng lưới giáo dục đại học hiện đại, đồng bộ, có sự phân bổ hợp lý.
Hướng đến mục tiêu “tái thiết”
Trao đổi với Tạp chí Giáo dục, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng vấn đề không nằm ở bản thân mô hình đại học vùng, mà ở cách tổ chức và vận hành mô hình đó. Thầy Trần Xuân Nhĩ nhấn mạnh: “Đại học vùng là cơ chế hữu hiệu để tích hợp và chia sẻ nguồn lực. Nếu xóa bỏ ngay lập tức mô hình này thì sẽ đánh mất một thiết chế có tiềm năng lớn phục vụ phát triển chiến lược quốc gia.”

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Ảnh: TTXVN)
Theo Phó Giáo sư, cái cần hiện nay là tái cấu trúc mô hình đại học vùng theo hướng tinh gọn, hiệu quả hơn, giảm đầu mối, giảm chồng chéo, nâng cao tính liên ngành. Với một số lĩnh vực chuyên sâu nằm gần nhau về địa lý, có thể tính toán nhập lại để tránh cạnh tranh nội bộ, nâng cao chất lượng nghiên cứu. Điều quan trọng là sau khi điều chỉnh, nâng cấp hoặc sáp nhập, các đại học vùng cần chú trọng tới các khoa đào tạo sư phạm. Hiện nay, các địa phương đang rất cần nguồn giáo viên từ mầm non đến trung học phổ thông để giải quyết vấn đề thừa - thiếu nhân lực cục bộ.
Đồng thời, Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ đề xuất cần sớm ban hành một nghị định hướng dẫn cụ thể: quy định rõ sứ mệnh, chức năng, phân cấp, phân quyền giữa đại học vùng và các đơn vị thành viên. Chỉ khi có khung pháp lý rõ ràng, đại học vùng mới có thể vận hành ổn định trong mô hình mới, đặc biệt sau sáp nhập, sắp xếp lại hệ thống giáo dục đại học.
Một số mô hình hệ thống đại học (University System) trên thế giới
Ở nhiều quốc gia, mô hình đại học đa cơ sở, tức một “hệ thống đại học” (university system/multi-campus university) được xây dựng với mục tiêu tận dụng hiệu quả nguồn lực, tạo quy mô đủ lớn để nghiên cứu, sáng tạo, đào tạo đa ngành, và có khả năng hợp tác quốc tế cao.
Ví dụ, University of the Philippines System (Philippines) với nhiều campus tại các địa phương khác nhau cung cấp hàng trăm chương trình đại học và sau đại học, với các đơn vị chuyên sâu khác nhau nhưng được kết nối trong một hệ thống chung. Ở Nhật Bản, University of Tsukuba từng mở rộng và quốc tế hoá thông qua nhiều thỏa thuận hợp tác, liên kết quốc tế, tạo điều kiện cho sinh viên, giảng viên làm việc xuyên biên giới. Đây là lợi thế của mô hình đa campus, đa lĩnh vực, năng động và linh hoạt.
Hệ thống quản trị theo “chiến lược tập trung - học thuật phân quyền” là cấp trung tâm giữ vai trò định hướng chiến lược, phân bổ nguồn lực, đảm bảo chuẩn chất lượng; các campus/đơn vị thành viên có quyền tự chủ học thuật, thiết kế chương trình, và tổ chức hoạt động phù hợp nhu cầu địa phương. Cách làm này giúp tối ưu hóa sử dụng nguồn lực chung: cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, nhân lực, tài chính được quản lý tập trung tránh lãng phí, nhân rộng, chồng chéo.
Đại học vùng sẽ giúp gắn kết với chính quyền, doanh nghiệp, nhu cầu phát triển địa phương, đồng thời vẫn duy trì khả năng nghiên cứu, giảng dạy ở tầm quốc gia/quốc tế. Nếu được sắp xếp, hợp nhất/sáp nhập theo lộ trình thận trọng, mô hình đại học vùng/hệ thống đại học có thể trở thành trụ cột trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
Con đường tái thiết đại học vùng trong bối cảnh sáp nhập
Vừa qua, vấn đề mô hình đại học vùng được các đại biểu Quốc hội đưa ra thảo luận trong khuôn khổ thảo luận về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) ngày 20/11. Các đại biểu đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm chứng lại vai trò và hiệu quả của đại học vùng trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam. Trước hết, cần có một đánh giá toàn diện, khách quan về vị trí, chức năng, lợi thế và hạn chế sau hơn ba thập kỷ vận hành. Từ đó có cơ sở để xem xét có nên tiếp tục duy trì mô hình hay cần chuyển đổi cho phù hợp với thực tiễn hiện nay. Nếu giữ lại, đại học vùng nên được tái cấu trúc để giảm bớt tầng quản lý trung gian, bỏ những nút thắt trong phân quyền đầu tư, nhân sự, khoa học, đồng thời trao quyền tự chủ rõ ràng hơn cho các đơn vị thành viên. Một hướng khác là tái cơ cấu theo mô hình đại học đa ngành - đa lĩnh vực, tức chuyển các trường thành viên có đủ năng lực hoạt động độc lập, thay vì giữ nguyên cơ chế “đại học trong đại học” với quyền hạn bị chia sẻ mơ hồ.
Mô hình đại học vùng dù chưa phát huy hết tiềm năng nhưng vẫn giữ một vị trí chiến lược quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh quốc gia cần tăng cường đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, cần có quá trình tái thiết, đổi mới về cơ chế quản trị, quyền tự chủ, phân cấp rõ ràng, để đại học vùng thực sự trở thành nơi hội tụ đa ngành, liên ngành, nghiên cứu - đào tạo - chuyển giao. Việc học hỏi từ các mô hình quốc tế có thể giúp Việt Nam xây dựng hệ thống đại học vùng phù hợp, hiện đại, phát huy lợi thế quy mô, nguồn lực chung, đồng thời vẫn đảm bảo tính linh hoạt, sáng tạo và gắn với đặc thù vùng.
Như vậy, thời điểm tái cấu trúc, sắp xếp lại hệ thống đại học nên được xem là cơ hội hoạch định thể chế, quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình và chiến lược phát triển lâu dài, để đại học vùng thực sự trở thành trụ cột giáo dục, khoa học và phát triển vùng, góp phần vào mục tiêu hiện đại hóa, đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Hà Giang