Nhằm đánh giá về kết quả CĐS GD giai đoạn 2022 - 2025 và chuẩn bị cho giai đoạn 2026 - 2030, Tạp chí Giáo dục có cuộc trao đổi với ông Tô Hồng Nam – Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin – Bộ GDĐT để làm rõ những vấn đề đặt ra và định hướng chiến lược của ngành trong thời gian tới.

Ông Tô Hồng Nam, Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin – Bộ Giáo dục và Đào tạo (Ảnh TTTTSK)
Hoàn thiện thể chế – Bước đi nền tảng của chuyển đổi số giáo dục
PV: Trong những năm qua, Bộ GDĐT đã triển khai nhiều chính sách nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành. Xin ông cho biết những định hướng lớn và kết quả nổi bật của Bộ trong giai đoạn 2022–2025?
Ông Tô Hồng Nam: GDĐT là một trong những ngành chủ động triển khai chuyển đổi số từ sớm. Ngay từ năm 2017, Bộ GDĐT đã tham mưu ban hành Đề án tăng cường ứng dụng CNTT trong giáo dục; đến năm 2022, Đề án số 131/QĐ-TTg đã xác định rõ 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho quá trình CĐS toàn ngành.
Trong giai đoạn 2022–2025, Bộ đã ban hành hàng loạt văn bản chuyên ngành như: khung năng lực số cho người học, quy định dạy học trực tuyến, quy chế đào tạo từ xa, bộ chỉ số đánh giá mức độ CĐS cơ sở giáo dục, hướng dẫn đảm bảo an toàn thông tin… Các văn bản này góp phần chuẩn hóa quy trình, thống nhất dữ liệu và tạo cơ sở quan trọng cho việc triển khai chuyển đổi số ở các địa phương và cơ sở giáo dục.
Phát triển cơ sở dữ liệu – Trụ cột của quản trị giáo dục hiện đại
PV: Giai đoạn 2022-2025 đánh dấu bước tiến quan trọng của GDĐT trong thực hiện chuyển đổi số, với nhiều kết quả nổi bật. Một trong những thành tựu nổi bật của ngành là xây dựng và vận hành các cơ sở dữ liệu lớn. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về quy mô và vai trò của cơ sở dữ liệu mầm non - phổ thông - đại học trong quá trình số hóa giáo dục?
Ông Tô Hồng Nam: Giai đoạn 2022 - 2025 có thể coi là bước tiến quan trọng của ngành Giáo dục trong thực hiện chuyển đổi số. Triển khai chỉ đạo của Trung ương, các Đề án của TTg, Bộ GDĐT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương thực hiện quyết liệt và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tiêu biểu: Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật thúc đẩy chuyển đổi số GDĐT. Như là các Chương trình xây dựng mô hình nguồn tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học, khung năng lực số cho người học, Quy định kỹ thuật về dữ liệu trong thanh toán không dùng tiền mặt đối với việc thu học phí và các khoản thu dịch vụ giáo dục, Quy định về quản lý và tổ chức dạy học trực tuyến trong cơ sở GDPT và cơ sở GDTX, quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học, bộ chỉ số đánh giá mức độ chuyển đổi số các cơ sở GDĐT, Hướng dẫn bảo đảm an toàn thông tin, tham gia môi trường mạng an toàn đối với hoạt động giảng dạy, quản lý giáo dục...
Một trong những thành tựu nổi bật nhất là việc hình thành các cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn, bao phủ toàn bộ ngành giáo dục từ mầm non đến đại học. Cụ thể, Bộ GDĐT đã xây dựng và đưa vào khai thác CSDL toàn ngành từ mầm non đến phổ thông từ năm 2018, đã số hóa thông tin của 50K cơ sở giáo dục, hơn 27 triệu hồ sơ học sinh, trên 1,7 triệu hồ sơ giáo viên, trên 115K hồ sơ cán bộ quản lý và người lao động, đồng thời kết nối, định danh, xác thực làm giàu cho CSDL QG về dân cư khoảng 24,3 triệu hồ sơ công dân (là giáo viên, học sinh).
Tiếp tục xây dựng và triển khai CSDL đại học (HEMIS), đã số hóa 470 cơ sở đào tạo, hơn 177K hồ sơ cán bộ, giảng viên, người lao động, trên 4 triệu hồ sơ người học, 34K chương trình đào tạo, 9K thông tin ngành đào tạo, 44K thông tin nhiệm vụ KHCN và trên 117K bài báo công bố trong nước.
Hiện nay, Bộ đã triển khai CSDL học bạ số, văn bằng số, số hóa hơn 10 triệu học bạ số và trên 01 triệu văn bằng số về CSDL tập trung, tích hợp với VneID (sẽ hoàn thành trong năm 2025).
Dịch vụ công trực tuyến – Minh bạch hóa và giảm gánh nặng thủ tục
PV: Giai đoạn 2023-2025 đánh dấu bước tiến mạnh về dịch vụ công trực tuyến của Bộ GDĐT. Những dịch vụ trực tuyến nào đã tạo hiệu ứng rõ rệt trong xã hội và mang lại thay đổi tích cực nhất, thưa ông?
Ông Tô Hồng Nam: Từ năm 2023, Bộ GDĐT xây dựng và đưa vào khai thác vận hành hệ thống giải quyết thủ tục hành chính với 95 dịch vụ công trực tuyến. Nhiều dịch vụ quy mô lớn như đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT trực tuyến với hơn 1 triệu thí sinh/năm (gồm xác nhận nơi cư trú), dịch vụ xét tuyển ĐH trực tuyến với trên triệu nguyện vọng/năm, xét tuyển đại học, công nhận văn bằng nước ngoài… được triển khai hoàn toàn trên môi trường số, góp phần giảm sai sót, tiết kiệm nguồn lực và nâng cao tính minh bạch.
Phát triển học liệu số – Nguồn tài nguyên mở phục vụ người dạy và người học
PV: Kho học liệu số dùng chung đang được thầy cô và học sinh khai thác mạnh mẽ. Ông có thể cho biết quy mô và vai trò của nguồn tài nguyên này đối với việc đổi mới dạy - học?
Ông Tô Hồng Nam: Kho học liệu số dùng chung miễn phí của giáo dục phổ thông hiện chia sẻ gần 10.000 bài giảng e-learning, 2.000 video bài giảng, 200 đầu sách giáo khoa số và 35.000 câu hỏi trắc nghiệm, góp phần hỗ trợ giáo viên và học sinh trong đổi mới phương pháp dạy học và tăng khả năng tự học của người học.
Đối với giáo dục đại học, từ năm 2024, các cơ sở đào tạo bắt đầu triển khai hệ thống khóa học trực tuyến mở đại trà (MOOCs) dùng chung. Việc xây dựng và sử dụng chung hệ thống MOOCs có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo điều kiện để người học tiếp cận nguồn học liệu chất lượng cao không giới hạn không gian – thời gian; thúc đẩy đổi mới phương thức dạy học theo hướng linh hoạt, cá thể hóa; đồng thời giúp các trường đại học chia sẻ tài nguyên, giảm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả đào tạo và từng bước hình thành hệ sinh thái đại học số.
Hệ thống MOOCs cũng góp phần mở rộng cơ hội học tập suốt đời cho toàn xã hội, tăng tính minh bạch, chuẩn hóa năng lực người học thông qua các chuẩn đầu ra thống nhất; qua đó khẳng định vai trò của giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế số.
Những thách thức lớn trong triển khai chuyển đổi số
PV: Bên cạnh những kết quả đạt được, chuyển đổi số giáo dục vẫn đối mặt nhiều thách thức. Theo ông, đâu là khó khăn lớn nhất hiện nay?
Ông Tô Hồng Nam: Chuyển đổi số trong giáo dục từ 2022 đến năm 2025 đã đạt nhiều kết quả tích cực. Trong số 32 mục tiêu cụ thể được giao thì giáo dục đại học có 13 mục tiêu, giáo dục phổ thông có 19 mục tiêu. Đối với giáo dục đại học, tiến độ triển khai các mục tiêu đạt nhiều kết quả nổi bật: 4/13 mục tiêu hoàn thành trước hạn, 6/13 mục tiêu cơ bản hoàn thành, và 3/13 mục tiêu còn lại đã hoàn thành một phần đang trong hạn. Ở giáo dục phổ thông, tiến độ thực hiện cũng cho thấy sự chuyển biến tích cực: 10/19 mục tiêu hoàn thành trước hạn, 7/19 cơ bản hoàn thành, còn 2/19 hoàn thành một phần trong hạn. Nhìn chung, kết quả này thể hiện sự vào cuộc quyết liệt của các cấp quản lý, sự chủ động của nhà trường và đội ngũ giáo viên trong tiến trình chuyển đổi số, hướng tới xây dựng một hệ sinh thái giáo dục hiện đại, minh bạch và hiệu quả.
Tuy vậy, ngành Giáo dục vẫn đối mặt với nhiều hạn chế: Hạ tầng công nghệ không đồng đều giữa các vùng miền; Thiếu kinh phí và nhân lực chuyên trách; năng lực số của giáo viên, học sinh còn chênh lệch; Chưa có nền tảng học tập và quản trị dùng chung trên phạm vi toàn quốc… Những yếu tố này khiến tiến độ số hóa chưa đồng bộ giữa các địa phương.
Giai đoạn 2026-2030, Bộ GDĐT ưu tiên xây dựng cơ sở dữ liệu “đúng - đủ - sạch - sống - thống nhất - dùng chung”, đồng thời phát triển các nền tảng học tập, quản lý giáo dục thống nhất toàn quốc. Để thực hiện mục tiêu này cần tăng đầu tư hạ tầng số, đảm bảo an toàn thông tin, mở rộng Internet cho giáo dục và thu hút nhân lực công nghệ chất lượng cao vào ngành.
Định hướng chiến lược giai đoạn 2026–2030
PV: Bước vào giai đoạn 2026–2030, Bộ GDĐT sẽ ưu tiên những lĩnh vực, nhiệm vụ nào để thúc đẩy chuyển đổi số toàn ngành, thưa ông?
Ông Tô Hồng Nam: Trong giai đoạn 2026-2030, Triển khai Nghị quyết 57, Nghị quyết 71 và các đề án quốc gia, Bộ GDĐT sẽ tập trung triển khai một số nhiệm vụ quan trọng như: Xây dựng và triển khai Nghị định về chuyển đổi số GDĐT; Xây dựng, triển khai Đề án CĐS giai đoạn 2026-2030 trình TTg; Xây dựng, triển khai Khung Kiến trúc số của Bộ GDĐT, phiên bản 4.0; Ban hành, triển khai Chiến lược AI trong GDĐT; Triển khai mô hình giáo dục đại học số; Triển khai Đề án nguồn tài nguyên giáo dục mở; Triển khai nền tảng giáo dục dùng chung quốc gia; Xây dựng và triển khai đề án dữ liệu học liệu Phổ thông; Triển khai Học bạ số, văn bằng số từ 2026, tích hợp VneID thay thế giấy tờ, đơn giản TTHC; Triển khai CSDL ngành giáo dục (gồm cả GD nghề nghiệp) và kết nối liên thông CSDL ngành GD với các CSDL quốc gia về dân cư và CSDL quốc gia, chuyên ngành khác; từ đó triển khai các dịch vụ công trực tuyến toàn trình sử dụng chung dữ liệu liên thông;
Triển khai phát triển năng lực số cho NGCBQLGD, người học, đặc biệt là năng lực AI; phổ cập kỹ năng số trong toàn ngành (mục tiêu năm 2026 100% CBCCVC, người LĐ trong ngành đạt chuẩn kỹ năng số, 100% HS từ cấp Tiểu học trở lên được trang bị kiến thức, kỹ năng số, 100% người dân trưởng thành có kỹ năng số cơ bản và 60 triệu người trưởng thành xác nhận đạt phổ cập kỹ năng số trên nền tảng VneID.
PV: Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Phó Cục trưởng!
Chuyển đổi số giáo dục là giải pháp quan trọng nhằm đổi mới quản trị, nâng cao chất lượng giáo dục và tạo điều kiện học tập công bằng cho mọi học sinh. Giai đoạn 2026–2030 là thời điểm ngành giáo dục tăng tốc, hướng tới xây dựng hệ sinh thái giáo dục số toàn diện và hiện đại.
Trịnh Thu