Tạo đà cho sự bứt phá của giáo dục
Trong bối cảnh Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 (Chương trình 1719, theo Quyết định số 1719 ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ) đang được triển khai mạnh mẽ, những nỗ lực đầu tư của ngành giáo dục và tâm huyết của đội ngũ giáo viên đang từng ngày thắp lên hy vọng về một thế hệ tương lai tươi sáng hơn nơi “phên dậu” của Tổ quốc. Phát triển giáo dục mầm non vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là một trong những ưu tiên hàng đầu, được cụ thể hóa trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, Chương trình 1719 được ví như một luồng sinh khí mới, một cú hích chính sách quan trọng, tạo đà cho sự bứt phá của giáo dục vùng khó, trong đó có giáo dục mầm non.
Trọng tâm của Chương trình 1719 đối với giáo dục là Dự án 5 Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Dự án này đã xác định rõ mục tiêu đầu tư, củng cố cơ sở vật chất, thiết bị cho các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có các trường mầm non là một trong những đối tượng thụ hưởng. Nhận thức rõ vai trò then chốt này, trong thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ động, tích cực trong vai trò “nhạc trưởng”, điều phối và hướng dẫn các địa phương triển khai hiệu quả nguồn vốn. Bộ đã ban hành các văn bản chỉ đạo, đặc biệt là các tiêu chuẩn, quy chuẩn về cơ sở vật chất làm căn cứ để các địa phương rà soát, lập kế hoạch đầu tư xây dựng, sửa chữa trường lớp.
Nguồn lực từ Chương trình 1719, lồng ghép với các chương trình kiên cố hóa trường, lớp học, đã tập trung giải quyết những vấn đề “nóng” nhất. Hàng trăm phòng học mới, phòng học bộ môn, nhà bếp, công trình vệ sinh và hệ thống nước sạch đã được xây dựng. Các điểm trường lẻ, vốn là đặc thù của giáo dục miền núi đang từng bước được đầu tư kiên cố, an toàn, sạch đẹp, thay thế cho những phòng học tạm, tranh tre nứa lá. Như tại Nghệ An, trong 5 năm qua, địa bàn miền núi Quỳ Châu chứng kiến sự thay đổi rõ rệt với hàng loạt công trình giáo dục được đầu tư xây mới như Trường mầm non Tân Lạc với 3 dãy nhà cao tầng khang trang, hay các trường mầm non ở Châu Tiến, Châu Hội… cũng được sửa chữa, cải tạo, góp phần củng cố, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non miền núi.
Đặc biệt, ngành giáo dục các địa phương như Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên... cũng chủ động tham mưu cho Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh bố trí nguồn vốn đối ứng, huy động xã hội hóa để tăng cường đầu tư xây dựng, mở rộng hệ thống trường lớp, đáp ứng tiêu chí phát triển giáo dục mầm non. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng phối hợp với nhiều địa phương thực hiện hiệu quả chủ trương dồn ghép các điểm trường lẻ về điểm trường chính, nơi có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn, đồng thời tổ chức các mô hình bán trú, bán trú dân nuôi… Điều này không chỉ nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục mà còn là giải pháp hữu hiệu để duy trì sĩ số, huy động trẻ ở độ tuổi mầm non đến lớp.
Rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách
Theo các chuyên gia, đẩy mạnh hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi chính là giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trên thực tế, bức tranh giáo dục mầm non ở các địa bàn này vẫn còn đó những gam màu trầm, nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.

Cần triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển giáo dục mầm non với sự đầu tư trọng điểm từ Chương trình 1719 để rút ngắn khoảng cách, bảo đảm công bằng giáo dục ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nguồn: VOV
Trong đó, vấn đề lớn nhất hiện nay là tình trạng thiếu giáo viên mầm non. Mặc dù với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt của ngành giáo dục, chế độ chính sách đãi ngộ đối với thầy cô đã cải thiện song vẫn khó tuyển dụng, giữ chân giáo viên mầm non bám trụ tại các vùng cao, vùng sâu vùng xa, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Bên cạnh đó, dù được đầu tư chiến lược từ Chương trình 1719 nhưng thực trạng cơ sở vật chất ở nhiều trường mầm non trong khu vực miền núi vẫn còn khoảng cách lớn so với yêu cầu. Số lượng điểm trường lẻ, trường thiếu cơ sở vật chất… vẫn còn là nỗi đau đáu của ngành giáo dục ở không ít địa bàn.
Để giáo dục mầm non vùng dân tộc thiểu số và miền núi thực sự cất cánh là bài toán cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng các địa phương cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn. Ưu tiên nguồn lực từ Chương trình 1719 và các nguồn vốn khác để tiếp tục đầu tư, kiên cố hóa các trường mầm non. Việc đầu tư này phải đồng bộ bao gồm lớp học, trang thiết bị dạy học, bổ sung đồ dùng, đồ chơi trong và ngoài lớp, xây dựng cảnh quan môi trường phù hợp nhất với trẻ, thực tiễn của địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, nhân rộng mô hình điểm để chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ trong giáo dục mầm non ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đãi ngộ, không chỉ về tài chính mà còn về cơ hội đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non vùng khó. Song song với giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cũng nên có chiến lược khuyến khích, tạo cơ chế thu hút con em đồng bào dân tộc thiểu số theo học các trường sư phạm mầm non. Cùng với đó, hướng dẫn cán bộ quản lý, giáo viên mầm non phát triển kế hoạch giáo dục nhà trường, chú trọng khai thác yếu tố văn hóa trong tổ chức, thực hiện chương trình phù hợp với điều kiện địa phương. Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục theo định hướng “lấy trẻ làm trung tâm”, phối hợp với cha mẹ và cộng đồng trong việc bảo đảm điều kiện thực hiện chế độ sinh hoạt cho trẻ trong chương trình giáo dục mầm non...
Chặng đường phát triển giáo dục mầm non vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn nhiều gian nan, việc triển khai đồng bộ các giải pháp này với sự đầu tư trọng điểm từ Chương trình 1719 chính là cú hích quan trọng rút ngắn khoảng cách phát triển, đảm bảo công bằng giáo dục.
Lê Thư