Đầu tư cơ sở vật chất, tiếp động lực cho người thầy nơi vùng khó

Giáo viên là yếu tố then chốt, quyết định chất lượng giáo dục nhưng cơ sở vật chất cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để các thầy cô có thể nâng cao chất lượng giảng dạy. Điều này càng đặc biệt quan trọng với các trường vùng cao, nơi cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, học sinh chủ yếu là người dân tộc thiểu số.

Trong những năm qua, với sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, các trường phổ thông dân tộc bán trú, nội trú, trường phổ thông có học sinh bán trú đã được đầu tư khang trang hơn, từ trường, lớp, phòng học, trang thiết bị, hệ thống giao thông, nước sạch, nhà công vụ giáo viên.

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025 theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã góp phần quan trọng trong thay đổi diện mạo các nhà trường, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn, tiếp thêm động lực để các thầy cô giáo yên tâm bám bản, bám trường, cống hiến cho sự nghiệp “gieo chữ trên non”.

Tiếp sức cho người thầy

Sốc, nản, muốn bỏ cuộc là tâm lý của không ít giáo viên vùng cao những ngày đầu vượt núi, băng rừng đến với những điểm trường nằm cheo leo giữa đại ngàn, không điện, không nước, không sóng điện thoại, trường lớp tạm bợ, đặc biệt là với những giáo viên vùng xuôi vốn đã quen với điều kiện sống nhiều thuận lợi.

Thầy Đặng Minh Hải vẫn còn nhớ những ngày mới đến Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Thượng Hóa (xã Kim Phú, tỉnh Quảng Trị) nhận công tác, thầy giáo trẻ “choáng váng” trước những khó khăn phải đối mặt. Đường đến trường quá khó khăn, đặc biệt là vào mùa mưa lũ. Trường học thiếu thốn từ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đến sách vở, bút, thước. Học sinh phải đi bộ hàng cây số để đến trường, có em phải nhịn đói để đi học. Người dân ở đây chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người là dân tộc Chứt gồm tộc người Rục, Sách có đặc thù văn hóa địa phương còn rất nhiều hạn chế. “Những ngày đầu, tôi rất buồn và nản lòng. Nhưng rồi, nhìn thấy ánh mắt trong veo, nụ cười hồn nhiên của các em, tôi lại có thêm động lực để tiếp tục. Tôi tự nhủ, mình phải cố gắng hơn nữa để không phụ lòng mong mỏi của các em, của bố mẹ các em”, thầy Hải nói.

Đường đến Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Mường Lạn (xã Mường Lạn, tỉnh Sơn La) của thầy Hoàng Văn Hải năm 2022. (Ảnh: NVCC)

Ba năm trước, thầy Hoàng Văn Hải tình nguyện về công tác tại điểm trường Huổi Pá, Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Mường Lạn (xã Mường Lạn, tỉnh Sơn La). Điểm trường nằm cách trường chính 12 cây số đường đất dốc, quanh co, mùa mưa sình lên lầy lội, trơn trượt. Thầy Hải không nhớ mình đã ngã bao nhiêu lần trên cung đường ấy. “Nhưng diện mạo con đường, mái trường hôm nay đã khác. Với quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, 12 km đường đất trước đây đã được betong hoá, trường lớp khang trang hơn. Điều đó đã tiếp sức, tạo động lực rất lớn cho những người thầy công tác nơi vùng sâu, vùng xa”, thầy Hải nói.

Hơn 20 năm công tác tại Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Dào San (xã Dào San, tỉnh Lai Châu), cô Trần Thị Thao bảo cô rất hạnh phúc khi chứng kiến ngôi trường “thay da đổi thịt”. Từ lớp học dựng bằng bùn đất, mái lợp cỏ gianh, ngăn thành hai ngăn bởi tấm liếp tre, không điện, không nước, không sóng viễn thông, đến nay, trường đã có các phòng học khang trang rộng rãi, thoáng mát, được trang bị đầy đủ thiết bị dạy học hiện đại như máy chiếu, màn hình, phòng máy tính để các em tham gia học môn Tin học. Cơ sở vật chất hiện đại hơn đã giúp cho thầy và trò có điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học, mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào từng bài giảng. Học sinh cũng có cơ hội tiếp cận, cọ xát với các cuộc thi bên ngoài trường. “Hiện trường có nhiều em đạt thành tích cao trong các cuộc thi trên mạng như Trạng nguyên Tiếng Việt, Violimpic toán và Tiếng Việt cấp trường, cấp huyện và cấp Quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với việc nền giáo dục xã Dào San đã và đang phát triển mạnh mẽ”, cô Thao hào hứng chia sẻ.

Đầu tư hơn nữa cho vùng khó

Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, đầu tư cơ sở vật chất cho vùng khó là một trong những nhiệm vụ cụ thể trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2025 của Chính phủ. Chương trình đã được ngành giáo dục và các địa phương tích cực triển khai trong thời gian qua.

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến hết 31/3/2025, dự án đã đầu cơ cơ sở vật chất cho các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông có học sinh ở bán trú trên trên 735.000 trang thiết bị dạy học; hơn 1.100 phòng công vụ giáo viên; gần 5.658 phòng ở cho học sinh; 373 phòng quản lý học sinh bán trú, nội trú; hơn 5.000 phòng học cùng hàng nghìn công trình khác như nhà ăn, nhà bếp, nước sạch, nhà sinh hoạt, sân chơi, bãi tập…

 

Các trường phổ thông dân tộc bán trú, nội trú đã được đầu tư cơ sở vật chất khang trang hơn. (Ảnh: NTCC)

Ước tính đến tháng 12/2025, tổng số công trình được dự án đầu tư cho các trường sẽ tăng lên hơn gần 1 triệu trang thiết bị dạy học; 1.200 phòng công vụ giáo viên; hơn 6.000 phòng ở cho học sinh; gần 400 phòng quản lý học sinh; gần 5.500 phòng học…

Với hàng nghìn phòng học, phòng ở cho học sinh, nhà công vụ giáo viên, hàng trăm nghìn trang thiết bị được trang bị cho các nhà trường đã góp phần to lớn để các thầy cô giáo có điều kiện sống và dạy học tốt hơn, tập trung hơn cho hoạt động dạy và học để từ đó nâng cao chất lượng đào tạo. Hệ thống điện lưới, Internet được đưa đến các nhà trường cũng giúp cho thầy cô có điều kiện để mở rộng tài liệu, xây dựng các bài giảng sinh động hơn đồng thời tự học để tiếp thu những phương pháp giảng dạy mới, học hỏi kinh nghiệm thông qua kết nối với cộng đồng sư phạm cả nước.

Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến nay, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú đã được thành lập ở hầu hết các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần quan trọng vào việc củng cố và duy trì kết quả phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Cả nước hiện có 319 trường trường phổ thông dân tộc nội trú với quy mô 115.333 học sinh dân tộc nội trú, trong đó có 187 trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm tỷ lệ 58,6%) và 1.213 trường phổ thông dân tộc bán trú với quy mô 245.800 học sinh bán trú, trong đó có 483 trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm tỷ lệ 39,8%). Ngoài ra còn có 2.145 trường phổ thông có học sinh bán trú với quy mô khoảng 213.199 học sinh bán trú, trong đó có 1.016 trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm tỷ lệ 47,3%).

Đặc biệt, Bộ Chính trị thông qua chủ trương đầu tư xây dựng các trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở tại 248 xã biên giới đất liền, trước mắt thí điểm đầu tư xây mới hoặc cải tạo 100 trường trong năm 2025, hoàn thành trước ngày 30/8/2026 và hoàn thành mục tiêu 248 trường trong 2-3 năm tới. Theo đó các trường được đầu tư bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, quy mô, diện tích trường, lớp; có đủ cơ sở vật chất phục vụ việc học tập, rèn luyện văn hóa, tinh thần, thể chất và điều kiện sinh hoạt.

Đây sẽ là điều kiện tiền đề vô cùng thuận lợi để các thầy cô giáo vùng cao, nhất là giáo viên các trường nội trú, bán trú vùng biên giới có thể nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, từ đó dần rút ngắn chênh lệch khoảng cách giáo dục vùng miền.

 

Mai Phạm

 

Bạn đang đọc bài viết Đầu tư cơ sở vật chất, tiếp động lực cho người thầy nơi vùng khó tại chuyên mục CT MTQG Phát triển KT-XH vùng ĐBDTTS và MN giai đoạn 2021-2030 của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

 

Phòng, chống COVID-19