Xây dựng tiềm năng từng cá nhân để đột phá nguồn lực trí tuệ quốc gia

Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia. Đây cũng là điều kiện tiên quyết, thời cơ quý giá để đất nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong đó, các chính sách đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò to lớn của giáo dục: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác giáo dục và đào tạo, xem đây là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt để phát triển đất nước. Trong đó, giáo dục đại học giữ sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Nghị quyết số 57-NQ/TW nhấn mạnh yêu cầu phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong đó, có các cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống về nhập quốc tịch, sở hữu nhà, đất, thu nhập, môi trường làm việc nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các "tổng công trình sư" trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực. Xây dựng, kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế.

Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam về tư duy giáo dục, liên kết nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp và những góc nhìn cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay.

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo Nhân dân Vũ Minh Giang

Thưa Giáo sư, trong tiến trình phát triển đất nước hiện nay, giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu, là nền tảng nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực. Khi nhìn lại truyền thống trọng hiền tài của dân tộc, đâu là nguyên lý cốt lõi cần được áp dụng vào bối cảnh hiện nay?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Điều đầu tiên phải khẳng định: Nhân tài ta thường gọi là tinh hoa nên luôn là thiểu số, là một bộ phận rất nhỏ. Vì vậy không thể dùng phương pháp đại trà để, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài. Cũng không thể kỳ vọng có cách nào đó để biến tất cả trở thành nhân tài.

Nói cách khác, phát hiện, tìm chọn và bồi dưỡng, đào tạo nhân tài thì nhất thiết phải theo phương thức cá thể hoá, phải theo sát từng trường hợp, xem họ “tài” về môn học nào, lĩnh vực nào, thế mạnh ở đâu và cần những phương thức bồi dưỡng đặc biệt gì để phát huy. Đó là nguyên tắc đầu tiên trong giáo dục và đào tạo đội ngũ nhân tài cho đất nước: Phát hiện và đào tạo nhân tài cần gắn với bồi dưỡng, sâu sát và có tính cá nhân hoá cao trong quá trình giáo dục.

Cá thể hoá trong giáo dục là đặt đúng người vào đúng quỹ đạo phát triển của họ. Nếu giáo dục chỉ vận hành đồng loạt sẽ làm mất đi cơ hội của những học sinh xuất sắc, giáo dục từ đó sẽ thiếu đi tính cạnh tranh, thiếu sự khuyến khích đối với tư duy độc lập - điều kiện cốt lõi để hình thành nhân tài.

Nhìn từ lịch sử, trọng dụng nhân tài đã là một truyền thống tốt đẹp có từ lâu đời của dân tộc. Từ thời Lê, triều đình đã nhận tức được rằng hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước hèn yếu, rồi đi xuống. Nhà bác học Lê Quý Đôn từng nói “phi trí bất hưng”. Sang đến thời hiện đại Chủ tịch Hồ Chí Minh là tinh hoa của văn hoá dân tộc, đã trở thành một lãnh tụ cách mạng mẫu mực trong việc trọng dụng hiền tài. Tư tưởng của Người là nguyên lý cốt lõi cho việc áp dụng vào bối cảnh hiện nay.

Nhiều chủ trương lớn gần đây như Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, hay định hướng đổi mới giáo dục đại học đều nhấn mạnh tới việc đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Theo Giáo sư, vì sao vấn đề sử dụng nhân tài lại mang tính quyết định sự thành công của mọi chính sách đào tạo và phát triển nhân lực hiện nay?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Tôi cho rằng, phát hiện và đào tạo nhân tài có vị trí đặc biệt quan trọng nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Vấn đề then chốt nằm ở khâu sử dụng. Đây mới là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mọi chính sách liên quan đến nhân tài. Lịch sử cho thấy, người tài thời nào cũng có, nhưng triều đại nào biết trọng dụng hiền tài thì triều đại đó đều hưng thịnh. Vì vậy, chính sách tốt nhất cho nhân tài là người nắm quyền lực chính trị thực tâm dùng người tài. Nếu người tài cảm nhận được rằng họ được tôn trọng, tiếng nói của họ có trọng lượng và họ có không gian làm việc đúng với năng lực, thì họ sẽ sẵn sàng cống hiến hết mình.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở các ưu đãi về vật chất thì chưa đủ. Trọng dụng nhân tài không chỉ nằm ở mức đãi ngộ, mà nằm ở thái độ và cách xã hội đối xử với trí thức.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Lễ kỷ niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp đại diện trí thức

Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang nói nhiều về đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, xây dựng cơ chế hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm quan sát giáo dục đại học và thị trường lao động, Theo Giáo sư, việc xây dựng cơ chế hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình phát hiện và sử dụng nhân tài?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Liên kết giữa nhà tường và doanh nghiệp rất quan trọng, nhưng cần hiểu cho đúng. Đào tạo gắn với nhu cầu xã hội không có nghĩa là trường học phải chạy theo những đòi hỏi ngắn hạn của doanh nghiệp.

Nhà trường có sứ mệnh lớn lao hơn: Đào tạo ra những con người có nền tảng, có tư duy độc lập, có khả năng sáng tạo - những yếu tố cốt lõi để hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao và một bộ phận nhỏ nhân tài. Khi đã có nhân tài thực sự, doanh nghiệp sẽ tự tìm đến. Một cơ chế sử dụng đúng sẽ kích hoạt sự liên kết tự nhiên, bền vững. Ngược lại, nếu cơ chế tuyển dụng và sử dụng nhân lực cứng nhắc hoặc thiếu thành thật trong trọng dụng, thì dù có liên kết hình thức đến đâu, cũng khó có thể phát huy hiệu quả.

Nhiều quốc gia đã thành công nhờ mô hình sử dụng nhân lực dựa trên sản phẩm đầu ra thay vì cơ cấu tổ chức. Theo Giáo sư, đâu là những nguyên tắc cốt lõi của mô hình này và ý nghĩa của mô hình đối với quá trình cải cách quản trị giáo dục, khoa học hiện nay?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Tôi lấy ví dụ về việc Hà Nội đang có chính sách tập hợp đội ngũ trí thức để hỗ trợ giải quyết các vấn đề của thủ đô. Theo tôi, không nên xây dựng một đội ngũ cố vấn “cứng”, mà nên tiến hành theo tiếp cận đầu ra (Outcome approach), một phương pháp tiếp cận dựa trên việc “đặt đầu bài” rồi “nghiệm thu” kết quả thực tế, thay vì tập hợp một đội ngũ “tinh hoa” nhưng hiệu quả hoạt động không cao. Ví dụ, hãy chỉ ra Hà Nội có bao nhiêu bài toán lớn cần giải quyết như ngập úng khi mưa, giao thông ách tắc, ô nhiễm môi trường… mỗi bài toán phải được “đóng gói” thành nhiệm vụ với kinh phí cụ thể (gói thầu). Rồi từ đó đội ngũ khoa học của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo trình độ cao, chất lượng cao có nguồn lực sẽ đấu thầu làm những nhiệm vụ khoa học này.

Cách làm này vừa khuyến khích người tài, vừa tạo động lực thực sự cho đổi mới và nghiên cứu. Mô hình này mô phỏng cách vận hành của các nền khoa học tiên tiến - nơi các nhà khoa học được đánh giá bằng sản phẩm. Tôi cho rằng các cơ sở giáo dục, địa phương hoặc doanh nghiệp đều có thể áp dụng tư duy tương tự: Giao nhiệm vụ rõ, đánh giá bằng sản phẩm và trao quyền cho người có năng lực.

Trong những năm qua, số lượng chuyên gia, giảng viên, nhà khoa học nước ngoài đến làm việc tại các cơ sở giáo dục của Việt Nam ngày càng tăng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, chuyển giao tri thức và công nghệ. Theo Giáo sư, việc xây dựng hệ sinh thái giáo dục - nghiên cứu trong nước có vai trò thế nào để thu hút lực lượng này?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Chúng ta hay nói đến việc mời trí thức ở nước ngoài, nhưng cần hiểu rằng người tài ở trong nước cũng rất nhiều. Người nước ngoài sẽ quan sát rất kỹ xem người tài trong nước được sử dụng ra sao rồi mới quyết định có về làm việc hay không. Vì vậy, muốn thu hút chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại các cơ sở khoa học và đào tạo của Việt Nam, trước hết phải trọng dụng người tài ngay trong nước.

Chính sách hiệu quả nhất để thu hút nhân tài quốc tế hay người Việt ở nước ngoài chủ yếu không phải nằm ở ưu đãi vật chất (mặc dù rất quan trọng), mà ở một môi trường làm việc mà trí thức cảm thấy họ được tôn trọng, được tin cậy và cơ hội làm việc lớn. Nếu chúng ta không xây dựng được môi trường ấy, mọi lời mời gọi đều chỉ mang tính hình thức.

Lịch sử Việt Nam cho thấy thời kỳ thịnh vượng nhất, chính là thời kỳ tôn vinh trí thức mạnh mẽ nhất. Điều đó chứng tỏ: Khi xã hội biết đặt người tài vào đúng vị trí, đất nước sẽ phát triển vượt bậc. Nếu chúng ta học được tinh thần cởi mở, tôn trọng sự khác biệt và trao cho người tài điều họ cần nhất - sự lắng nghe và cơ hội cống hiến thì hoàn toàn có thể tạo nên một giai đoạn phát triển mới.

Giáo sư nhìn nhận thế nào về những chính sách hiện nay trong giáo dục - đào tạo và phát triển nhân lực chất lượng cao?

Giáo sư Vũ Minh Giang: Điều đáng mừng là chúng ta đang có những nền tảng tư tưởng mới như Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Những chính sách này đều thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đến phát triển nhân lực chất lượng cao và đội ngũ trí thức. Một số đại học lớn như Đại học Quốc gia Hà Nội đã bắt đầu những mô hình cơ chế hiệu quả nhằm tạo sự tự chủ và môi trường thuận lợi cho nhà khoa học. Tuy nhiên, chính sách chỉ là khung hướng dẫn, quan trọng nhất vẫn là quá trình triển khai.

Triển khai nghĩa là đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo; giao nhiệm vụ, đánh giá sản phẩm; bảo vệ nhà khoa học trước rủi ro; tạo cơ chế để tri thức có thể “dám nghĩ, dám làm” trong nghiên cứu; thúc đẩy mối liên kết nhà trường - doanh nghiệp để chuyển giao tri thức và tạo ra động lực đổi mới. Khi thực hiện được những điều này, nguồn lực con người sẽ tự nhiên “chảy” về nơi cần họ. Khi đó, giáo dục mới thực sự trở thành nền tảng phát triển quốc gia.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!

Hà Giang

Bạn đang đọc bài viết Xây dựng tiềm năng từng cá nhân để đột phá nguồn lực trí tuệ quốc gia tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn