Đắk Lắk là tỉnh có tỷ lệ học sinh người DTTS đông (trên 35%), với 49 dân tộc anh em cùng chung sống. Số lượng học sinh DTTS ở cấp tiểu học hiện có 83.395 em (42.1%), trong đó, người Êđê chiếm 53%. Bên cạnh tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS theo quy định, địa phương này tiếp tục duy trì dạy môn tiếng dân tộc (môn tự chọn tiếng Êđê) tại 68 trường với 10.756 em. Sở GD&ĐT Đắk Lắk xác đinh: “Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường là yếu tố then chốt, huy động các nguồn lực xã hội là điều kiện quan trọng trong việc duy trì sĩ số học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục vùng DTTS”.

Giáo viên Trường Tiểu học Cư Pui 2 cùng đồng nghiệp thường xuyên đến tận nhà học sinh để hỗ trợ học tập. (Ảnh: TT)
Chú trọng công tác tuyên truyền
Theo Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Đắk Lắk Lê Thị Kim Oanh, mặc dù được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, chính sách hỗ trợ, nhưng việc nâng cao chất lượng dạy học ở vùng đồng bào DTTS, nhất là dạy học tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vẫn còn nhiều khó khăn. Địa phương xác định, tuyên truyền để nâng cao nhận thức là yếu tố quan trọng. Mục đích, giúp người dân hiểu rõ ý nghĩa của việc học tập tiếng phổ thông sẽ mở ra cơ hội tiếp cận các dịch vụ giáo dục chất lượng cao. Từ đó mở ra con đường phát triển nghề nghiệp, việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Phó Giám đốc Sở GD&ĐT cho biết thêm, để đạt hiệu quả tối đa nhiệm vụ này, Sở GD&ĐT hướng dẫn cụ thể triển khai nhiệm vụ năm học 2024-2025: “Đối với cơ sở giáo dục tiểu học chưa đủ điều kiện tổ chức dạy học 2 buổi/ngày, trên cơ sở dạy học đúng, đủ nội dung và thời lượng các môn học bắt buộc theo quy định của chương trình. Cơ sở giáo dục tiểu học chủ động xác định nội dung, lựa chọn hình thức tổ chức, phân bổ thời lượng phù hợp cho môn học tự chọn, hoạt động củng cố, tăng cường tiếng Việt cho học sinh vùng DTTS. Ưu tiên đảm bảo các điều kiện tổ chức dạy tăng buổi cho học sinh các lớp đầu cấp”.
Theo cô Võ Thị Kim Thùy, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Cư Pui I (huyện Krông Bông), qua hoạt động tuyên truyền, nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, các bậc cha mẹ học sinh và cộng đồng đối với việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng DTTS đã được nâng lên rõ rệt. “Hiện nay đơn vị đang tích cực hỗ trợ các bậc cha, mẹ học sinh trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em qua giao tiếp, các hoạt động trong cuộc sống, các kênh thông tin truyền thông. Từ đó nâng cao, gắn kết trách nhiệm về xây dựng môi trường tiếng Việt giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng”, cô Thùy thông tin. Thực tế cũng chỉ ra, hiện nay Trường Tiểu học Cư Pui cũng là một trong những điểm sáng trong công tác vận động các gia đình học sinh, tạo mọi điều kiện để con em người DTTS đến trường tham gia học 2 buổi/ngày. Giúp các em có thêm cơ hội, thời gian trong việc sử dụng tiếng Việt và giao tiếp bằng tiếng Việt. “Đội ngũ giáo viên tích cực xây dựng, thiết kế các chuyên đề, cuộc thi trong lớp nhằm mục đích tăng cường nội dung giao lưu bằng tiếng Việt. Đồng thời tổ chức trao đổi kinh nghiệm, học hỏi và kết nối đến các tổ chức và cá nhân có liên quan, cụ thể như: Giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”, Ngày hội đọc sách, thi kể chuyện theo sách… giúp các em tự tin trong nói và viết”, cô Thùy nói thêm.
Nỗ lực giúp trò đến lớp phát triển bản thân

Điểm lẻ thôn Ea Rớt (Cổng trời), Trường Tiểu học Cư Pui 2, huyện Krông Bông. (Ảnh: TT)
Để duy trì việc học ở trường thường xuyên, đội ngũ thầy cô giáo ở Đắk Lắk phải vừa dạy, vừa “dạm” để cha mẹ cho các con đi học đều. Theo Cô Lê Thị Việt, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nơ Trang Lơng (huyện Krông Pắc), các trường có đông học sinh DTTS nếu không duy trì được tỷ lệ chuyên cần thì nâng cao chất lượng dạy học sẽ bị ảnh hưởng. Kéo theo đó là những “rào cản” làm chậm quá trình luyện tiếng phổ thông cho nhóm học sinh DTTS. “Đội ngũ nhà giáo ở đây vừa phải xây dựng kế hoạch bài dạy phù hợp từng nhóm, đối tượng người học vừa kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp dạy học tích cực, đồng thời là một tuyên truyền viên tích cực. Chỉ cần 1 học sinh vắng học, thầy cô tìm cách liên hệ, đến nhà vận động, giải thích, thậm chí trích lương mua quà để động viên gia đình cho con ra lớp học”, cô Việt nói, đồng thời nhấn mạnh: “Hầu hết học sinh người DTTS có tố chất tốt ở lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Vì vậy, khi nói thông viết thạo tiếng Việt, các em sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận, học tập các bộ môn mình yêu thích”.

Thông thạo tiếng phổ thông giúp học sinh DTTS Đắk Lắk tiếp cận các dịch vụ giáo dục chất lượng cao. (Ảnh: TT)
Còn theo thầy Nguyễn Hồng Thuần, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Cư Pui 2 (huyện Krông Bông) cho biết, trải qua muôn vàn gian khó, lớp lớp thầy cô giáo vẫn kiên trung bám trụ với đất và người Cư Pui với mong muốn truyền chữ cho học trò. “Hằng năm, để bảo đảm chỉ tiêu học sinh ra lớp đúng độ tuổi, hầu hết thầy cô tự nguyện cắt ngắn lịch nghỉ hè để cùng nhau băng rừng, lội suối đến tận nhà vận động học sinh ra lớp. Đối với các điểm lẻ nằm xa điểm chính hơn chục km như thôn Ea Rớt (Cổng trời), nhiều thầy cô còn vào sửa sang phòng ốc, chuẩn bị nơi ăn, chốn ở cho các em. Khi đến trường, nhiều em nói tiếng Việt chưa rõ, thầy cô phải dùng giáo án riêng có sự kết hợp tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt. Đây cũng là một thách thức mà thầy cô giáo luôn phải nỗ lực để vượt qua”, thầy Thuần chia sẻ.
Cũng theo lời thầy Thuần, Năm học 2024-2025 này có thuận lợi hơn vì 3 điểm lẻ đã có phòng học tương đối khang trang với bờ rào bao quanh kiên cố (điểm chính chưa có tường rào). Vì vậy, phụ huynh cũng yêu tâm để con ra lớp học tập đông đủ hơn. Tạo điều kiện để thầy cô triển khai dạy học đạt hiệu quả. Tuy nhiên, để giúp số ít học sinh thường theo cha mẹ đi rẫy rồi vắng 1 - 2 ngày, thầy cô vẫn phải chia nhau “đi tìm” rồi dạy thêm tại nhà cho các em. “Con đường mang chữ đến với học sinh ở vùng sâu, vùng xa này đôi lúc gian nan lắm, nhưng với tình yêu nghề, yêu trẻ, quyết tâm giúp các em đọc thông, viết thạo tiếng Việt, chúng tôi vẫn bám trường, bám lớp. Tích cực phối hợp cấp ủy, chính quyền, người có uy tín, các tổ chức đoàn thể tại địa phương để phối hợp gia đình trong việc tổ chức dạy học cho các em”, thầy Thuần trải lòng.
Nói thêm về điều này, cô Võ Thị Kim Thùy, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Cư Pui I cho rằng, bên cạnh sự nhiệt tình, năng động của thầy cô, vai trò của các già làng, trưởng buôn, trưởng thôn, chi đoàn thanh niên, hội phụ nữ… cũng hết sức quan trọng: “Nhờ phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị ở cơ sở, công tác duy trì sĩ số từng bước được nâng cao. Học sinh ra lớp đầy đủ thì chất lượng dạy học cũng tăng dần lên”.
Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên – Thúc đẩy chất lượng giáo dục vùng khó
Cùng với sự tâm huyết của đội ngũ nhà giáo và sự đồng hành của chính quyền địa phương, việc nâng cao chất lượng giáo dục tại các vùng sâu, vùng xa như Krông Bông, Krông Pắc... còn nhận được sự hỗ trợ từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025.
Một trong những nội dung trọng tâm của chương trình là “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên ở các cơ sở giáo dục vùng khó khăn”, trong đó chú trọng đến các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú và trường có học sinh bán trú. Chính sách tạo điều kiện để đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn, cập nhật kỹ năng sư phạm phù hợp với đối tượng học sinh DTTS, đặc biệt là năng lực dạy học tiếng Việt theo hướng tăng cường, cá thể hóa. Đồng thời, chương trình cũng chú trọng cải thiện điều kiện làm việc, tăng cường đãi ngộ, hỗ trợ cơ sở vật chất, góp phần thu hút và giữ chân giáo viên giỏi gắn bó lâu dài với vùng khó. Đây là yếu tố nền tảng để giáo dục vùng dân tộc thiểu số phát triển bền vững và chất lượng.
Những nỗ lực bền bỉ của đội ngũ nhà giáo, sự đồng hành của chính quyền địa phương cùng chính sách hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia đã và đang mang lại chuyển biến tích cực trong giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khi học sinh nói thông, viết thạo tiếng Việt, cánh cửa cơ hội học tập và phát triển sẽ rộng mở hơn, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, hướng tới một nền giáo dục công bằng, toàn diện và bền vững.
Thành Tâm – Trịnh Thu