
Học sinh người DTTS ở Đắk Lắk học nghề dệt truyền thống. (Ảnh: Thành Tâm)
Tầm quan trọng của nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong vùng DTTS không chỉ là lực lượng lao động mà còn là những người giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển đội ngũ này có chất lượng cao sẽ tạo ra những cơ hội mới cho người dân, từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Nghị quyết số 44-NQ/TU về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Lắk đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 do Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk Phạm Minh Tấn ký năm 2022 cũng nêu, “Quan điểm chung, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập quốc tế và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Phát triển nguồn nhân lực gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phải hài hòa về cơ cấu và cân đối nhân lực theo ngành, lĩnh vực để phát huy cao nhất những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại chỗ…”. Quá trình triển khai, các ngành, địa phương, trong đó ngành giáo dục của tỉnh Đắk Lắk coi đây là nhiệm vụ chính quan trọng.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk H’ Yim Kđoh động viên học sinh trường PTDTNT tỉnh. (Ảnh: Thành Tâm)
TS. Đỗ Tường Hiệp, Phó Giám đốc Sở GD&ĐT cho biết: Việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại chỗ vừa nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục. Trong đó, trọng tâm là nâng cao năng lực tiếng Việt cho học sinh DTTS và dạy tiếng DTTS cho chính nhóm học sinh này, mục đích, giúp bảo tồn văn hóa và truyền thống của các dân tộc, đồng thời tạo điều kiện cho việc tiếp cận tri thức và công nghệ mới. “Đối với giáo dục dân tộc, tỉnh đã quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2011-2020 định hướng đến năm 2025. Trong đó quy hoạch mạng lưới trường lớp phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) cấp THCS có 15 trường, quy mô 2.400 học sinh và 2 trường PTDTNT cấp THPT, quy mô 1.080 học sinh. Nâng cao năng lực tiếng Việt cùng với dạy tiếng mẹ đẻ được chú trọng ở trường phổ thông. Điều đó cho thấy, tỉnh rất quan tâm đến phát triển bền vững vùng DTTS, bởi các trường chính là cái nôi tạo nguồn nhân lực chất lượng cho địa phương về lâu dài”, TS Hiệp phân tích.
Nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở các tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021–2025 đã xác định rõ nhiệm vụ “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên ở các cơ sở giáo dục vùng khó khăn”, trong đó nhấn mạnh vai trò của các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú và trường có học sinh bán trú.
Trên tinh thần đó, đội ngũ giáo viên tại các trường vùng sâu, vùng xa được tạo điều kiện tham gia các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, tăng cường năng lực dạy tiếng Việt cho học sinh DTTS, kỹ năng tổ chức lớp học tích hợp, phân hóa phù hợp với từng đối tượng người học. Đồng thời, việc đầu tư phát triển đội ngũ nhà giáo cũng đi đôi với chính sách hỗ trợ về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và điều kiện làm việc cho giáo viên vùng khó.
Tại Đắk Lắk, đây là lực đẩy quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục tại các trường PTDT nội trú, nơi đang thực hiện nhiệm vụ “ươm mầm” nguồn nhân lực chất lượng tại chỗ cho tỉnh. Việc nâng cao năng lực đội ngũ không chỉ giúp học sinh đọc thông viết thạo tiếng Việt, mà còn tạo nền tảng vững chắc để các em tiếp cận tri thức mới, tự tin phát triển nghề nghiệp trong tương lai.
Nâng cao cơ hội tiếp cận nghề nghiệp
Mặc dù có tiềm năng lớn, nhưng nguồn nhân lực trong vùng đồng bào DTTS vẫn gặp nhiều thách thức, trong đó, việc nói thông, viết thạo tiếng Việt vẫn cần có lộ trình đào tạo bài bản. Theo ông Y Si Thắt, Phó Chủ tịch UBND huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk), thách thức đầu tiên là trình độ học vấn thấp. Ở một số buôn làng vẫn còn nhiều người chỉ nói tiếng mẹ đẻ, chưa nói thạo tiếng phổ thông dẫn đến không được phổ cập giáo dục. Điều này ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nghề nghiệp và các dịch vụ giáo dục chất lượng cao. Hệ lụy dài lâu, thiếu kỹ năng nghề do chưa được đào tạo bài bản, dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp. “Chúng ta đã có nhiều lần họp bàn, đưa ra nhiều dẫn chứng rồi, nhưng thực tế, tỷ lệ người dân được đào tạo qua trường lớp vẫn còn quá thấp. Một điều nữa, hiện nay nhiều người dân chỉ biết nói tiếng của dân tộc mình nhưng lại không viết được chứ chưa nói đến việc đọc thông, viết thạo tiếng Việt. Nhóm này luôn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, nhất là thông tin về cơ hội học tập và việc làm. Vì vậy, ngành giáo dục và các địa phương phải sớm vào cuộc, tăng cường dạy tiếng DTTS và tiếng Việt cho học sinh và người dân. Hãy cho họ cần câu chứ đừng cho họ con cá”, ông Y Si Thắt nói.

Ông Phạm Đăng Khoa, Chủ tịch Hội khuyến học tỉnh, nguyên Giám đốc Sở GD&ĐT Đắk Lắk động viên thầy và trò Trường THPT DTNT Đam San. (Ảnh: Thành Tâm)
Chung quan điểm, Phó Chủ tịch UBND huyện Cư M’gar (Đắk Lắk) Y Wem Hwing cho rằng, chỉ có nâng cao nhận thức về việc học cho người dân mới là chìa khóa để phát triển vùng DTTS. Ông Y Wem lý giải, do nhiều gia đình, buôn làng thường sinh hoạt bằng tiếng mẹ đẻ (dân tộc nào nói tiếng dân tộc đó), khi đến trường, nhóm học sinh DTTS cần thời gian nhiều hơn để làm quen với tiếng phổ thông. Vì vậy, các em cũng thiệt thòi hơn trong việc học tập, tiếp nhận các đơn vị kiến thức. Để giải quyết những khó khăn này, theo TS. Đỗ Tường Hiệp, thời gian tới, ngành GD&ĐT Đắk Lắk tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 44 về phát triển nguồn nhân lực của tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Bên cạnh tăng cường tiếng Việt ở trường phổ thông, Sở phối hợp các cơ sở đào tạo nghề tại Đắk Lắk xây dựng giải pháp cụ thể nhằm tăng cơ hội học nghề cho học sinh người DTTS.

Học sinh Đắk Lắk tham quan, học tập về văn hóa truyền thống các dân tộc Việt Nam tại Bảo tàng tỉnh. (Ảnh: Thành Tâm)
Liên quan đến vấn đề này, bà Trần Thị Thiết, Hiệu trưởng Trường Trung cấp Tây Nguyên khẳng định, đơn vị sẵn sàng “mang phòng học” về tận cơ sở để chung tay với địa phương đào tạo nghề cho con em người DTTS. “Chủ trương nhất quán của Nhà trường, sẵn sàng đồng hành với địa phương trong đào tạo “Thực học, thực hành, thực nghiệp”. Cam kết về đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ chuyên môn cao, thấu hiểu học sinh. Chương trình đào tạo thực tiễn có sự tham gia giảng dạy của doanh nghiệp, thực hành lên đến 80% thời lượng môn học. Nhờ đó, những yêu cầu về nguồn lao động có kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm, làm việc độc lập… đã được nhà trường đáp ứng.
Tuy nhiên, TS. Đỗ Tường Hiệp cũng thẳng thắn chỉ ra, để giúp học sinh DTTS đọc thông viết thạo tiếng phổ thông địa phương cần tăng cường truyền thông để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của việc học và cơ hội nghề nghiệp cho con em. Các chính sách, chương trình hỗ trợ như tín dụng, học bổng cho học sinh, sinh viên người DTTS cần thực hiện kịp thời, nhằm khuyến khích việc học tập và nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, tăng cường chính sách ưu đãi, khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào vùng đồng bào DTTS, từ đó tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Ngoài ra, huy động nguồn lực từ các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ thông qua hợp tác để hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực trong vùng DTTS.
|
Theo thống kê, Đắk Lắk hiện có dân số hơn 1,9 người, trong đó lao động khu vực nông thôn gồm cả vùng DTTS chiếm tới 75,28%, cơ bản vẫn là tỉnh thuần nông. Toàn tỉnh có 42 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gắn với đó là nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ học tập cho từng đối tượng chính sách, nhiều nhất là con em người DTTS. Tuy nhiên, số lao động khu vực nông thôn được đào tạo giai đoạn 2021-2023 mới chỉ đạt 9.121 người. Vì vậy, trong năm 2024, tỉnh phấn đấu đào tạo cho nhóm này đạt 64%, trong đó 22,25% được cấp bằng, chứng chỉ. |
Thành Tâm – Trịnh Thu