
Thầy giáo Nguyễn Văn Nhân cùng đồng nghiệp đón học sinh trong lễ khai giảng năm học mới tại điểm trường Ông Bình (Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1, TP. Đà Nẵng). Ảnh: NVCC
Nhiều chính sách lớn ưu tiên cho phát triển giáo dục vùng Dân tộc thiểu số, miền núi
Thực hiện chủ trương về phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách lớn, thể hiện rõ sự quan tâm, ưu tiên đầu tư phát triển đội ngũ quản lý và nhà giáo - lực lượng then chốt quyết định chất lượng giáo dục. Trong đó, Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030 (giai đoạn I: 2021–2025) nhấn mạnh nhiệm vụ “nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú. Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, có nêu rõ nhiệm vụ Tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất trường lớp đạt chuẩn, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông. Trong đó yêu cầu “nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”. Các chính sách này không chỉ mang ý nghĩa nâng cao trình độ chuyên môn, mà còn hướng tới phát triển toàn diện con người vùng dân tộc thiểu số, thu hẹp chênh lệch về cơ hội học tập giữa các vùng miền, bảo đảm công bằng trong giáo dục.
Nhận thức rõ vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo, những năm qua, Ngành Giáo dục và Đào tạo Đà Nẵng và (Quảng Nam cũ) đã tập trung triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý và giáo viên, đặc biệt là ở các trường phổ thông dân tộc bán trú. Nội dung bồi dưỡng chú trọng: Cập nhật chương trình giáo dục phổ thông 2018, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; Tổ chức tập huấn kỹ năng quản trị nhà trường, chuyển đổi số trong giáo dục, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và quản lý học sinh vùng khó; Phối hợp với Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng mở các khóa bồi dưỡng nâng chuẩn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, khích lệ giáo viên tự học, tự bồi dưỡng. Ngoài ra, Đà Nẵng còn chú trọng xây dựng môi trường học tập cộng đồng, khuyến khích mô hình “trường học hạnh phúc”, lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo trong dạy học vùng đặc thù.
Là một trong các xã miền núi điển hình trong hoạt động bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ, hàng năm xã miền núi Nam Trà My tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên, tập huấn chuyên đề theo hướng gắn lý thuyết với thực tiễn vùng núi, trong đó tập trung vào: Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông mới, chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh dân tộc thiểu số; Tập huấn kỹ năng quản trị nhà trường, công tác chủ nhiệm, công tác bán trú, bảo đảm an toàn, nề nếp sinh hoạt và rèn kỹ năng sống cho học sinh;
Bồi dưỡng năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý, dạy học – đặc biệt hữu ích trong điều kiện vùng sâu, vùng xa; Hỗ trợ giáo viên học nâng chuẩn trình độ đào tạo, tạo điều kiện cho giáo viên trẻ học tập, rèn luyện, phấn đấu đạt chuẩn và trên chuẩn theo quy định mới. Bên cạnh đó, các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú xã Nam Trà My còn triển khai mô hình “bồi dưỡng tại chỗ - hỗ trợ đồng nghiệp”, trong đó các giáo viên cốt cán, có kinh nghiệm sẽ hướng dẫn, kèm cặp đồng nghiệp tại trường hoặc cụm trường. Cách làm này giúp việc bồi dưỡng trở nên linh hoạt, phù hợp với đặc thù vùng núi, đồng thời tạo môi trường học hỏi, chia sẻ chuyên môn thường xuyên giữa các thầy cô.
Ngoài ra, nhiều hoạt động bồi dưỡng kỹ năng mềm cũng được chú trọng, như: tập huấn kỹ năng giao tiếp với học sinh dân tộc thiểu số, kỹ năng tổ chức hoạt động ngoại khóa, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh miền núi. Nhờ những nỗ lực ấy, đến nay, trên 95% giáo viên ở Nam Trà My đã đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo; nhiều cán bộ quản lý, giáo viên được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, là nòng cốt trong phong trào đổi mới giáo dục vùng cao. Quan trọng hơn, đội ngũ nhà giáo nơi đây đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt, bền bỉ gieo chữ và nuôi dưỡng khát vọng học tập cho con em đồng bào các dân tộc, góp phần xây dựng “vùng cao Nam Trà My học tập, phát triển, hội nhập”.
Đội ngũ giáo viên trường PTDTBT chủ động nâng chuẩn
Bên cạnh các khóa tập huấn, bồi dưỡng nâng chuẩn đội ngũ theo chính sách thì có nhiều tấm gương giáo viên miền núi chủ động học tập nâng chuẩn để gắn bó và phát triển với nghề.
Với trình độ trung cấp sư phạm, thầy giáo Thầy Nguyễn Văn Nhân được nhận dạy hợp đồng tại Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Dơn thuộc huyện vùng cao Nam Trà My (Quảng Nam), nay là Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1 (TP Đà Nẵng). Những đợt thi tuyển viên chức ngành giáo dục do Sở GDĐT Quảng Nam (cũ) tổ chức, thầy Nhân không đủ điều kiện về trình độ đào tạo nên không thể đăng ký dự thi.

Thầy giáo Nguyễn Văn Nhân tiếp nhận các vật dụng cần thiết phục vụ dạy – học, sinh hoạt cho học sinh các điểm trường lẻ do CLB Bạn thương nhau (Đà Nẵng) hỗ trợ. Ảnh: NVCC
Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1 có rất nhiều trường hợp không đáp ứng trình độ đào tạo như thầy Phạm Văn Tiến, thầy Hồ Văn Xuân. Các thầy đều là giáo viên hợp đồng từ 3 - 5 năm và hầu như năm nào cũng dạy học ở các điểm trường lẻ “nhiều không”, không điện, không nước sạch…, không sóng điện thoại, nằm sâu trong núi, dưới tán rừng già Ngọc Linh. Lương hợp đồng của các thầy những năm trước chỉ ở 4,65 triệu/tháng nay đã tăng lên được 6 triệu/tháng nhờ tăng lương cơ sở.
Thầy Nhân cho biết, để đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp, ngay khi vừa được nhận vào dạy hợp đồng, thầy đã chủ động sắp xếp thời gian để học liên thông lên đại học sư phạm tại Trường Đại học Quảng Nam. Hè năm 2023, thầy Nhân hoàn thành xong chương trình đại học và vẫn đang đợi để tham gia kỳ thi tuyển dụng viên chức ngành giáo dục.
“Vừa hoàn thành công tác chuyên môn, lại mới vào nghề, có rất nhiều bỡ ngỡ từ soạn giảng, chuẩn bị các hoạt động dạy học cho đến phương pháp sư phạm... nhưng tôi cũng phải cân đối thời gian để hoàn thành bài vở của chương trình đại học” – thầy Nhân nhớ lại. Dạy học ở các điểm trường lẻ, thầy Nhân tranh thủ nghiên cứu tài liệu vào giờ ra chơi của học sinh hay lúc nghỉ trưa. “Buổi tối, các điểm trường lẻ không có điện. Để tiết kiệm đèn dầu thì mọi công việc phải tranh thủ giải quyết vào ban ngày. Lương tôi thời điểm ấy mỗi tháng chỉ được 4 triệu đồng, phải tiết kiệm, dè sẻn đủ thứ để còn nộp học phí. Rồi tháng nào cũng phải sửa xe, không thay nhông, sên, đĩa thì thay lốp do đường rừng thường trơn trượt, nhiều đá dăm và dốc đứng” – thầy Nhân nhớ lại khoảng thời gian tự học để nâng chuẩn đào tạo.
Thầy Hồ Văn Lim, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú THCS Nguyễn Trãi (xã Trà Tập, TP Đà Nẵng) kể, năm 2014, khi thầy đi học nâng chuẩn ở Tam Kỳ (Quảng Nam) cũ thì xe bị mất trộm. “Tôi đi báo công an mà cũng không hy vọng tìm lại được. Nghĩ xa nghĩ gần không biết vay mượn đâu ra tiền để mua lại một chiếc xe cũ. May sao chỉ vài ngày sau bên công an gọi lên nhận lại xe. Xe tìm lại được nhưng bị hư hỏng khá nhiều. Vừa học nâng chuẩn vừa lo kinh tế cho gia đình nên tiền lương không dư dả để sửa sang lại xe. Tiếng là xe máy nhưng nó chỉ còn trơ khung sắt…”, thầy giáo trẻ chia sẻ.
Thầy giáo Nguyễn Tin Thắng, Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1 (xã Trà Leng, TP Đà Nẵng) tốt nghiệp trung cấp sư phạm âm nhạc của Trường Văn hóa – Nghệ thuật Quảng Nam năm 2015. Để đáp ứng yêu cầu nâng chuẩn trình độ giáo viên theo quy định của Luật Giáo dục 2019, thầy Thắng đã chủ động đăng ký tham gia đào tạo nâng trình độ chuẩn từ trung cấp lên đại học. Thầy Thắng học chương trình liên thông giữa Học viện Âm nhạc Huế và Trường Đại học Quảng Nam từ năm 2021.
Thầy Thắng học liên thông trong 4 học kỳ hè, trong năm học thì gần như cuối tuần nào cũng phải chạy xe máy xuống Thành phố Tam Kỳ để tham gia lớp học. “Khóa học của tôi diễn ra trong thời gian bị ảnh hưởng bởi dịch Covid – 19 nên có những thời điểm phải chuyển sang học trực tuyến là chủ yếu. Chất lượng mạng internet không ổn định nên nhiều khi giảng viên đang giảng bài mà mình bị “rớt” ra khỏi lớp”. Vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về điều kiện giảng dạy và học tập ở huyện vùng khó của tỉnh Quảng Nam, thầy Thắng nhận bằng tốt nghiệp cử nhân sư phạm âm nhạc vào năm 2023.
Có những thầy cô vay nợ đi học nâng chuẩn
Đều đặn từ năm 2020 – 2022, thầy giáo Trần Văn Ky, giáo viên Thể dục, Trường Phổ thông dân tộc bán trú THCS Trà Vân (Nam Trà My, Quảng Nam) cứ sáng sớm ngày thứ 7 hàng tuần là vượt 130km đường rừng núi để xuống TP Tam Kỳ học lớp liên thông từ cao đẳng Giáo dục thể chất lên đại học. Mùa hè, việc đi lại còn đỡ vất vả. Những ngày mưa to gió lớn, thầy Ky cũng đều có mặt nghe giảng đầy đủ. có cả sạt lở, bùn lầy, cả những con suối dâng cao tràn qua nhưng chiếc cầu treo mỏng mảnh.
Chuẩn bị cho việc tham gia học lớp liên thông từ cao đẳng lên đại học sư phạm để đạt chuẩn theo Luật Giáo dục 2019, thầy Trần Văn Ky làm hồ sơ vay Ngân hàng chính sách 50 triệu đồng: Số tiền này thầy Ky vừa sử dụng để nộp học phí, cứ mỗi học kỳ 8 triệu, tổng cộng là 6 học kỳ, cũng suýt soát gần 50 triệu. Chi phí xăng xe, ở trọ… thì phải chi tiêu dè xẻn từ lương hàng tháng. Nhà trường cũng tạo điều kiện để thầy Ky không phải tham gia các hoạt động ngoại khóa tổ chức vào cuối tuần nên việc học cũng thuận lợi.
Món nợ từ ngân hàng chính sách, thầy Ky mới chỉ đủ khả năng trả tiền lãi hàng tháng. “Con cái còn nhỏ, đang tuổi ăn tuổi học, cả 2 vợ chồng tôi thay nhau đi học liên thông để nâng chuẩn nên thành gia đình gần như không tháng nào có tiền dư dả, luôn trong tình trạng “giật gấu vá vai”. Vì vậy nên đến thời hạn thanh toán số dư nợ, ngân hàng hướng dẫn cho chúng tôi làm thủ tục đáo hạn để vay lại khoản tiền này, số nợ vẫn còn nguyên chứ chưa trả được đồng nào” – thầy Ky kể.
Thầy Lê Huy Phương, Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1 chia sẻ rằng những giáo viên đã chủ động đi học nâng chuẩn được nhà trường đánh giá cao cả về ý thức, thái độ đối với nghề nghiệp cũng như những thay đổi, điều chỉnh trong phương pháp tổ chức các hoạt động dạy học sau khi nâng cao chuyên môn. “Nhà trường cam kết với các thầy cô trong diện hợp đồng, dù trong thời gian nghỉ hè vẫn nhận lương đầy đủ như trong năm học. Thầy cô cứ yên tâm tiếp tục theo học lớp nâng chuẩn, nhà trường sẽ tạo điều kiện để đi học nhưng hè vẫn có lương”, thầy Phương cho biết.
Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1 có 12 giáo viên hợp đồng. Trong 2 tháng hè, số giáo viên này vẫn nhận đủ lương và đảm bảo quyền lợi tham gia bảo hiểm xã hội. Với cách “giữ chân” này, ông Lê Huy Phương cho hay, trường có đủ giáo viên bộ môn Âm nhạc, Mỹ thuật và Tin học, không phải bố trí giáo viên trái chuyên môn đứng lớp như những năm học trước đó.
Những tấm gương điển hình yêu nghề, bám trường chủ động học tập nâng chuẩn đầy xúc động của Nguyễn Văn Nhân, thầy Hồ Văn Lim, Trần Văn Ky, Nguyễn Tin Thắng cùng những chương trình, hoạt động bồi dưỡng nâng chuẩn chất lượng đội ngũ nhà giáo nói trên không chỉ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý mà còn khơi dậy tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, sự tận tâm của đội ngũ thầy cô giáo vùng khó.
Từ những khóa tập huấn, lớp bồi dưỡng, nhiều giáo viên, cán bộ quản lý đã trưởng thành, trở thành hạt nhân lan tỏa đổi mới trong đơn vị, tích cực áp dụng phương pháp giảng dạy sáng tạo, phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số. Chính từ môi trường ấy đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, những người thầy, người cô miệt mài bám bản, bám trường, góp phần làm nên diện mạo mới cho giáo dục vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của Đà Nẵng hôm nay.
Hà Trần - Trịnh Thu