Huy động mọi nguồn lực xã hội để hỗ trợ thầy và trò vùng khó khăn

Huy động nguồn lực xã hội đã và đang là một trong những chiến lược trọng tâm giúp thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền. Đây không chỉ là giải pháp tài chính mà còn là biểu hiện của tinh thần cộng đồng, chung tay xây dựng môi trường học tập an toàn, bền vững cho thầy và trò nơi gian khó.

Lễ khởi công xây dựng ngôi trường số 59 trong Dự án “Hạnh phúc cho em” của Ban Thanh niên Công an tỉnh Sơn La (Ảnh: Ban Truyền thông Dự án “Hạnh phúc cho em”)

Chính sách xã hội hóa giáo dục vùng khó khăn

Trong Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục đã khẳng định toàn xã hội có trách nhiệm chăm lo, tham gia đóng góp nguồn lực và giám sát phát triển giáo dục. Chủ trương này được cụ thể hóa qua hàng loạt chính sách như Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Nghị định 66/2025/NĐ-CP về hỗ trợ học sinh, trường phổ thông ở vùng khó khăn, cùng nhiều đề án kiên cố hóa trường lớp do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) triển khai.

Các chính sách trên đều nhấn mạnh đến yêu cầu huy động đa dạng nguồn lực xã hội nhằm bù đắp hạn chế đầu tư công, đồng thời phát huy nội lực của địa phương. Cơ chế xã hội hóa đầu tư giáo dục được xem là nguồn lực mềm, vừa mang tính tài chính, vừa là sự lan tỏa của tinh thần trách nhiệm xã hội. Trong những năm qua, nhờ có nguồn lực xã hội, hàng nghìn phòng học bán kiên cố tại các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên đã được sửa chữa hoặc xây mới. Hàng trăm điểm trường lẻ được hợp nhất, giúp giảm đáng kể tình trạng học sinh phải di chuyển xa, học trong điều kiện thiếu an toàn.

Cùng với đầu tư của Nhà nước, chính sách xã hội hóa giáo dục đã trở thành động lực khơi dậy trách nhiệm cộng đồng, thu hút sự chung tay của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân cho sự nghiệp trồng người. Các nguồn lực cộng đồng được huy động hiện nay đều mang những giá trị tích cực khác nhau: doanh nghiệp và quỹ xã hội góp phần đổi mới công nghệ dạy học, tài trợ cơ sở vật chất, học bổng, trang thiết bị; tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ (NGO) giúp tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật, nước sạch, dinh dưỡng, thư viện thân thiện, lớp học xanh. Tuy nhiên, khi thiếu cơ chế phối hợp thống nhất, các nguồn lực hỗ trợ thường bị phân tán, trùng lặp hoặc thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật, làm giảm hiệu quả đầu tư. Vì vậy, hiệu quả của việc áp dụng các chính sách, huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục chỉ được phát huy tối đa khi đi đôi với công khai, minh bạch, trách nhiệm cộng đồng.

Thực tế việc huy động các nguồn lực và cơ chế vận hành bền vững

Theo Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2024-2025 của Bộ GDĐT, tỷ lệ kiên cố hóa phòng học trên cả nước đạt 89,6%. Tuy nhiên, phần lớn số phòng học chưa kiên cố vẫn tập trung ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc và khu vực khó khăn như Tây Nguyên, Tây Bắc, Trung Bộ và Tây Nam Bộ. Đáng lo ngại, bậc mầm non và tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất, với nhiều địa phương điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vẫn còn tồn tại hơn 40% phòng học nhờ, mượn, chưa được kiên cố hóa. Ở các tỉnh miền núi như Sơn La, Tuyên Quang, Quảng Ngãi, hàng nghìn phòng học tạm vẫn đang tồn tại. Thậm chí, vẫn có tình trạng thiếu phòng học thiếu phòng học cục bộ tại các khu vực có mật độ dân cư cao, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đặc biệt, mỗi mùa mưa bão, nhiều điểm trường bị sạt lở, mái dột, bàn ghế hư hỏng, khiến cho nhu cầu kiên cố hóa trường lớp, nhà bán trú, bếp ăn, nhà vệ sinh… trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, nhiều mô hình hợp tác công - tư đã chứng minh sự hiệu quả khi huy động các nguồn lực xã hội. Tiêu biểu là dự án “Hạnh phúc cho em” của Ban Thanh niên Công an tỉnh Sơn La đã kết nối, kêu gọi sự ủng hộ của các tấm lòng hảo tâm để hỗ trợ xây dựng hơn 80 công trình giáo dục tại tỉnh Sơn La và 1 công trình tại Tuyên Quang, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, nhiều Tổ chức phi chính phủ như Room to Read (tổ chức cải thiện khả năng đọc, viết và bình đẳng giới trong giáo dục), Plan International (tổ chức phát triển nhân đạo quốc tế tập trung vào quyền trẻ em) hay ChildFund Việt Nam (tổ chức phát triển quốc tế độc lập hoạt động nhằm xóa đói giảm nghèo cho trẻ em tại các cộng đồng đang phát triển) cũng triển khai thành công mô hình thư viện, phòng học thân thiện, hay bếp ăn dinh dưỡng ở vùng dân tộc thiểu số. Điểm chung của các mô hình này là đều có sự đồng hành của xã hội, cộng đồng.

Thư viện được xây dựng theo mô hình Room to Read của Trường Tiểu học Lương Thế Vinh (Gia Lai) (Ảnh: Tổ chức phi chính phủ Room to Read Việt Nam)

Dù vậy, vẫn tồn tại những vướng mắc trong quản trị. Ở một số địa phương, công trình tài trợ chưa có quy trình nghiệm thu chuẩn, nguồn lực bị dàn trải, đầu tư vào hạng mục không cấp thiết; nơi khác lại thiếu vốn duy trì hoạt động. Những bất cập này cho thấy, nếu không có cơ chế tài chính bền vững và tiêu chí giám sát rõ ràng, việc huy động xã hội hóa có thể chỉ mang tính ngắn hạn.

Từ những mô hình đã huy động nguồn lực xã hội thành công cho thấy, để huy động hiệu quả nguồn lực xã hội hỗ trợ giáo dục vùng khó, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp - từ hoàn thiện cơ chế tài chính, ưu đãi đầu tư, chuẩn hóa quy trình kỹ thuật và giám sát, đến nâng cao năng lực quản trị cơ sở và đẩy mạnh truyền thông cộng đồng. Huy động nguồn lực xã hội không chỉ là biện pháp bổ trợ ngân sách, mà là chiến lược phát triển bền vững, gắn giáo dục với trách nhiệm cộng đồng và mục tiêu phát triển địa phương. Mỗi ngôi trường được dựng nên từ bàn tay chung sức của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân không chỉ là mái nhà tri thức, mà còn là biểu tượng cho niềm tin vào một nền giáo dục công bằng và nhân văn.

Bảo Ngọc, Hà Giang

Tài liệu tham khảo 

Bộ GDĐT (2025). Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2024 - 2025 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm học 2025 - 2026  đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục nghề nghiệp.

 

 

 

Bạn đang đọc bài viết Huy động mọi nguồn lực xã hội để hỗ trợ thầy và trò vùng khó khăn tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

 

Phòng, chống COVID-19