Hoạt động giáo dục giới tính của học sinh trường THCS Hoàng Mai (Hà Nội) (Ảnh: Trường THCS Hoàng Mai)
Giáo dục giới tính học đường trong thời đại mới
Theo Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) cấp tiểu học ban hành kèm Quyết định 16/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 (đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Chương trình GDPT 2018 ban hành kèm Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT), nội dung GDGT đã được tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa môn Khoa học lớp 5, với các yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng. Trải qua nhiều lần điều chỉnh và hướng dẫn thực hiện, nội dung này luôn được duy trì và triển khai có hệ thống.
Chương trình GDPT năm 2018 (ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT), GDGT được mở rộng, tích hợp vào các môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, 2, 3) và Khoa học (lớp 4, 5). Các nội dung liên quan như phòng tránh xâm hại, tôn trọng giới tính, kỹ năng tự bảo vệ cũng được lồng ghép trong các môn Đạo đức và Hoạt động trải nghiệm ngay từ lớp 1. Như vậy, GDGT đã trở thành nội dung bắt buộc trong chương trình tiểu học, được thiết kế phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi - đánh dấu bước tiến lớn trong việc đưa GDGT thành một nội dung chính thống.
Song song với đó, các đề án liên ngành giữa Bộ GDĐT và Bộ Y tế như Đề án chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên giai đoạn 2020-2030 cũng hướng tới xây dựng môi trường học đường thân thiện, an toàn, không bạo lực giới. Những chính sách này nhấn mạnh vai trò phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội, nhằm đảm bảo học sinh được tiếp cận tri thức giới tính đúng đắn, khoa học và an toàn.
Việc GDGT trong nhà trường không chỉ là cung cấp kiến thức sinh học, mà còn giúp học sinh hình thành nhận thức, kỹ năng ứng xử, giá trị nhân văn, hiểu về quyền cá nhân, tôn trọng khác biệt và có trách nhiệm với hành vi của mình. Trong bối cảnh Nghị quyết 71-NQ/TW (2025) đề cao mục tiêu phát triển con người toàn diện về đức - trí - thể - mỹ, GDGT được xem là một cấu phần quan trọng.
GDGT cần được nhìn nhận như một chính sách giáo dục thiết yếu, không thể phó mặc cho gia đình hay phong trào tự phát. Mục tiêu của chính sách không chỉ nhằm giảm tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn, xâm hại tình dục hay bạo lực giới, mà còn nâng cao năng lực tự bảo vệ, ra quyết định và giao tiếp lành mạnh của học sinh. Để đạt hiệu quả, Bộ GDĐT và nhà trường cần xây dựng một hệ quy chiếu chung - nơi học sinh, phụ huynh và giáo viên có cùng nhận thức về giới, quyền cá nhân và cách ứng xử phù hợp trong không gian học đường.
Dạy trẻ hiểu để biết tự bảo vệ mình
Thực tế cho thấy, nhu cầu được học về giới tính, tình bạn, tình yêu, và sức khỏe sinh sản ở học sinh ngày càng rõ rệt. Các khảo sát về học sinh THCS và THPT gần đây cũng cho thấy mong muốn được học bài bản về giới tính trong nhà trường của học sinh ngày càng cao, nhưng thực tế chỉ có số ít học sinh tại các trường học đã từng tham gia lớp học hoặc các hoạt động liên quan đến chủ đề này.
Hoạt động giáo dục giới tính của học sinh trường THCS Hoàng Mai (Hà Nội) (Ảnh: Trường THCS Hoàng Mai)
Nhiều trường đã chủ động đưa GDGT vào hoạt động ngoại khóa hoặc buổi sinh hoạt chuyên đề. Tại Trường Trung học cơ sở (THCS) Hoàng Mai (Hà Nội) chuyên đề “Giáo dục giới tính” được tổ chức với sự tham gia của các diễn giả chuyên môn, giúp học sinh hiểu rõ hơn về bản thân, nhận biết những thay đổi tâm sinh lý tuổi dậy thì và biết cách bảo vệ mình trước các nguy cơ xung quanh. Tương tự, Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến (Phú Yên) triển khai chuyên đề “Cơ thể tớ là của tớ” cho học sinh khối 3, 4, 5, trang bị kiến thức cơ bản về giới tính, kỹ năng nhận biết và phòng tránh xâm hại tình dục. Những buổi học trải nghiệm này mang lại kiến thức thực tế, giúp học sinh có thái độ tích cực hơn khi được tìm hiểu, khám phá về cơ thể và giới tính của chính mình.
Học sinh trường Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến (Phú Yên) tại buổi chuyên đề “Giáo dục giới tính: Cơ thể tớ là của tớ” (Ảnh: Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Khuyến)
Dù GDGT đã được đưa vào trường học và được triển khai linh hoạt dưới nhiều hình thức song vẫn gặp nhiều rào cản. Một phần do yếu tố văn hóa và tâm lý xã hội, khi nhiều phụ huynh và cả giáo viên vẫn ngại đề cập. Đội ngũ giáo viên cũng còn hạn chế về năng lực và kỹ năng sư phạm giới, do chưa được đào tạo bài bản. Tài liệu giảng dạy thiếu tính chuẩn hóa, chưa thống nhất giữa các địa phương, trong khi khung pháp lý chưa quy định rõ chuẩn đầu ra về kỹ năng giới tính cho từng cấp học. Bên cạnh đó, môi trường số tiềm ẩn nhiều rủi ro, khiến học sinh dễ tiếp cận thông tin sai lệch về tình dục.
Những thách thức này đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện hơn, có lộ trình thống nhất, đồng bộ để GDGT thực sự trở thành một phần trong giáo dục phổ thông. Trước hết, cần hoàn thiện hoàn thiện khung chính sách và chuẩn năng lực, có cơ chế giám sát liên ngành giữa giáo dục - y tế - lao động xã hội. Song song với đó cũng cần đào tạo đội ngũ, chuẩn hóa và số hóa học liệu giúp giáo viên giảng dạy phù hợp lứa tuổi, cập nhật kiến thức an toàn. GDGT cũng cần gắn với giáo dục kỹ năng sống và an toàn mạng, giúp học sinh nhận biết, phòng tránh quấy rối, lừa đảo trực tuyến. Đồng thời, huy động sự tham gia của phụ huynh, đoàn thể và truyền thông trong xây dựng môi trường giáo dục giới tính bền vững. Về lâu dài, nên tổ chức GDGT thành môn học độc lập với chương trình, giáo trình riêng, do đội ngũ chuyên gia đảm nhiệm để đạt hiệu quả cao nhất.
GDGT học đường không chỉ là “bài học về cơ thể”, mà còn là bài học về nhân cách, quyền con người và sự tôn trọng. Khi học sinh hiểu rõ bản thân, biết bảo vệ mình và tôn trọng người khác sẽ nền tảng hình thành công dân Việt Nam thời đại mới - nhân văn, tự tin, có trách nhiệm. GDGT không dừng ở việc truyền đạt kiến thức, mà là quá trình rèn luyện hành vi, thái độ và kỹ năng để học sinh “hiểu và biết tự bảo vệ mình”.
Bảo Ngọc, Hà Giang
Tài liệu tham khảo
Bộ GDĐT (2022), Công văn 850/BGDĐT-GDTH về việc trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới trước kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV.