Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet)
Kiểm định chất lượng - nền tảng của đổi mới giáo dục đại học
Chất lượng giáo dục đại học là yếu tố cốt lõi quyết định uy tín và sức cạnh tranh của nền giáo dục quốc gia. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã từng bước xây dựng hê thống đảm bảo và kiểm định chất lượng nhằm hướng đến sự công khai, minh bạch và chuẩn hoá hoạt động đào tạo. Không chỉ là việc “đạt chuẩn”, quá trình kiểm định còn buộc các trường đại học phải nhìn lại chính mình, từ triết lý đào tạo, chương trình học, đội ngũ giáo viên cho tới phương thức quản trị. Điều này giúp hình thành văn hoá chất lượng nội tại, thay vì phụ thuộc vào những đợt đánh giá bên ngoài. Ở tầm vĩ mô, kiểm định góp phần nâng cao trách nhiệm giải trình của các trường đối với xã hội, tạo căn cứ cho phân tầng, xếp hạng và hoach định chính sách giáo dục đại học.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), hiện có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định, gồm 1.941 chương trình theo tiêu chuẩn trong nước và 696 chương trình theo tiêu chuẩn quốc tế, đạt 52,1% tổng số 5.007 lượt ngành đào tạo - vượt xa mục tiêu trung hạn (mục tiêu 35%, trong đó 10% đạt chuẩn quốc tế). Đây là cơ sở quan trọng để triển khai Nghị quyết số 281/NQ-CP về phân tầng và xếp hạng cơ sở giáo dục đại học. Bên cạnh đó, tất cả các tổ chức kiểm định đến hạn đều đã được đánh giá định kỳ theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT và trên 60% đã tham gia các mạng lưới bảo đảm chất lượng quốc tế hoặc hợp tác song phương, thể hiện bước tiến rõ nét trong hội nhập quốc tế.
Tại Hội nghị sơ kết thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022-2030”, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, Bộ GDĐT Huỳnh Văn Chương đề xuất phân loại cơ sở theo mức độ chất lượng để có chính sách phù hợp. Đồng thời xây dựng Trung tâm phân tích dữ liệu bảo đảm chất lượng quốc gia kết nối với HEMIS, SAHEP để hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu; rà soát pháp luật để gắn yêu cầu bảo đảm chất lượng với mở ngành, đầu tư, xếp hạng, tự chủ; thí điểm kiểm định theo nhóm ngành để chuẩn hoá và tiết kiệm chi phí.
Với các trường, nhóm chưa kiểm định cần sớm xây dựng quy trình tự đánh giá; nhóm đã kiểm định cần số hoá hệ thống và sử dụng dashboard theo dõi cải tiến; nhóm mạnh nên tham gia kiểm định quốc tế và xếp hạng học thuật. Các tổ chức kiểm định cần tái cấu trúc theo hướng độc lập, minh bạch, chuyên nghiệp, phấn đấu đến năm 2030 có 50% đạt công nhận lẫn nhau (MRA) ở cấp khu vực hoặc quốc tế. Hướng tới giai đoạn 2026-2030, Bộ GDĐT nhấn mạnh ba từ khoá: Hoàn thiện - Thực chất - Hội nhập quốc tế. Theo đó, hệ thống bảo đảm và kiểm định phải thực chất, khách quan, không hình thức; đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế để xây dựng mô hình phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Hướng tới chuẩn quốc tế, gắn kiểm định với hội nhập và trách nhiệm xã hội
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá giáo dục đại học, kiểm định chất lượng đang trở thành “ngôn ngữ chung” của hệ thống giáo dục trên thế giới. Các tổ chức kiểm định quốc tế như AUN-QA (ASEAN), ABET (Hoa Kỳ), FIBAA (Thuỵ Sỹ),… đều xây dựng khung tiêu chuẩn, tạo điều kiện để các tổ chức kiểm định quốc gia công nhận lẫn nhau thông qua các thoả thuận Mutual Recognition Agreement (MRA). Nhờ đó, một chương trình hoặc cơ sở giáo dục đạt chuẩn kiểm định ở một quốc gia có thể được công nhận tại nhiều quốc gia khác, giúp việc trao đổi sinh viên, chuyển đổi tín chỉ và thừa nhận bằng cấp trở nên thuận lợi hơn. Đây chính là nền tảng quan trọng để đại học Việt Nam tham gia sâu hơn vào không gian giáo dục đại học khu vực và toàn cầu.
Xu hướng kiểm định quốc tế hiện nay đang chuyển sang đánh giá theo năng lực đầu ra, kết quả học tập và mức độ cải tiến liên tục. Thay vì tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào như cơ sở vật chất, đội ngũ hay chương trình, các tổ chức kiểm định hiện đại quan tâm hơn đến năng lực thực tế của sinh viên sau khi tốt nghiệp, khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội và mức độ hài lòng của nhà tuyển dụng. Điều này thúc đẩy các trường đại học phải đặt người học và thị trường lao động làm trung tâm, coi chất lượng là một quá trình liên tục thay đổi vì chất lượng.
Một đặc điểm nổi bật khác của xu hướng quốc tế là tích hợp yếu tố số hoá, dữ liệu lớn và tự động hoá trong công tác kiểm định. Nhiều quốc gia đã phát triển hệ thống dashboard trực tuyến để theo dõi chất lượng theo thời gian thực, ứng dụng công nghệ trong thu thập và phân tích dữ liệu, giúp quy trình đánh giá trở nên khách quan, minh bạch và hiệu quả hơn. Đây là xu hướng mà Việt Nam đang bắt đầu triển khai khi xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu kiểm định quốc gia và khuyến khích các tổ chức kiểm định chuyển đổi số toàn diện.
Ở Việt Nam, định hướng hội nhập trong kiểm định đã được thể hiện rõ trong Dự thảo Thông tư kiểm định cơ sở giáo dục đại học (thay thế Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học) do Bộ GDĐT xây dựng. Theo đó, hệ thống tiêu chuẩn kiểm định được cập nhật theo AUN-QA phiên bản 3.0, tinh gọn từ 25 tiêu chuẩn và 111 tiêu chí xuống còn 15 tiêu chuẩn và 60 tiêu chí, tập trung vào ba trục chính: chiến lược - hệ thống - kết quả. Cách đánh giá cũng đổi mới theo hướng tinh giản, từ 7 mức sang 2 mức (đạt/ không đạt) cùng một mức trung gian “đạt có điều kiện”, phản ánh chính xác hơn năng lực cải tiến của các trường. Dự thảo còn bổ sung nhiều điểm mới như minh bạch báo cáo kiểm định, ứng dụng công nghệ số, quy định rõ trách nhiệm và cơ chế hậu kiểm, thu hồi chứng nhận nếu cơ sở không duy trì được tiêu chuẩn.
Những thay đổi này cho thấy Việt Nam đang tiến gần hơn tới chuẩn quốc tế trong tư duy quản lý. Kiểm định được coi là công cụ để giảm tải thủ tục, tăng tính thực chất và khuyến khích tự chủ, không phải rào cản hành chính. Với định hướng này, hệ thống kiểm định Việt Nam sẽ vừa bảo đảm được tính đặc thù trong nước, vừa tương thích với các mô hình khu vực, giúp đại học Việt Nam chủ động tham gia vào các mạng lưới kiểm định toàn cầu.
Trong kỷ nguyên tự chủ, mỗi trường đại học đều tự hoạch định hướng đi và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm đào tạo của mình. Khi đó, kiểm định như một “thước đo” của sự uy tín và tự chủ đại học. Một cơ sở được kiểm định đạt chuẩn sẽ tạo niềm tin cho phụ huynh, sinh viên, doanh nghiệp, đồng thời là bằng chứng cho năng lực quản trị, sáng tạo và cải tiến không ngừng.
Từ góc độ chính sách, việc Nhà nước đẩy mạnh kiểm định chất lượng đại học là bước đi phù hợp với Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực chất, hội nhập và có trách nhiệm xã hội”. Do đó, trong giai đoạn tới, việc xây dựng một hệ thống kiểm định mạnh, độc lập, gắn với cơ chế tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường là điều kiện tiên quyết để giáo dục đại học Việt Nam tiến tới hội nhập bền vững và thực chất.
Hà Giang
Tài liệu tham khảo:
Bộ GDĐT (2025). Sơ kết Chương trình phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=11192
Bộ GDĐT (2025). Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học. https://vqa.moet.gov.vn/vi/news/tin-tuc-su-kien/sau-noi-dung-lon-sua-doi-quy-dinh-ve-kiem-dinh-chat-luong-co-so-giao-duc-dai-hoc-221.html