Trường Phổ thông vùng cao Việt Bắc
Chính sách đồng bộ, định hướng rõ ràng
Trong những năm qua, các chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục đối với đồng bào DTTS được thể chế hóa thành hệ thống văn bản pháp luật thống nhất, bao trùm từ giáo dục mầm non đến đại học. Các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Nghị quyết 24-NQ/TW năm 2003 và Kết luận 65-KL/TW năm 2019 về công tác dân tộc; đặc biệt là Nghị quyết 43-NQ/TW năm 2023 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển giáo dục vùng DTTS gắn với bảo tồn văn hóa, nâng cao dân trí và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc. Cùng với đó, nhiều chính sách cụ thể của Chính phủ và Bộ, ngành đã được ban hành như Nghị định 66/2025/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ học sinh vùng DTTS; Quyết định 142/QĐ-TTg năm 2022 về nâng cao chất lượng dạy học tiếng dân tộc; Quyết định 1719/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030. Những chính sách này tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho sự phát triển giáo dục toàn diện vùng đồng bào DTTS.
Kết quả nổi bật tại Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc
Nhờ sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước và địa phương, Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc đã trở thành điểm sáng trong hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú và dự bị đại học dân tộc. Mỗi năm, nhà trường duy trì quy mô hơn 2.000 học sinh dân tộc nội trú và 200 - 250 học sinh hệ dự bị đại học. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 100%, 100% học sinh lớp 12 đủ điều kiện vào đại học, cao đẳng, dự bị đại học. Kết quả thi học sinh giỏi quốc gia duy trì ổn định với 18–20 giải/năm; học sinh giỏi cấp tỉnh đạt hơn 340 giải/năm. Học sinh nhà trường cũng giành nhiều giải cao trong các kỳ thi nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong nước và quốc tế, trong đó có 7 Huy chương Vàng quốc tế và 1 giải Nhất cấp quốc gia (giai đoạn 2020–2025).
Trong công tác đào tạo hệ dự bị đại học, nhà trường phối hợp chặt chẽ với các cơ sở giáo dục đại học để đảm bảo đầu ra cho học sinh; 100% học sinh dự bị được xét chuyển vào các trường đại học đúng nguyện vọng. Đặc biệt, nhà trường đã đào tạo hơn 600 học sinh thuộc các dân tộc rất ít người như Ngái, Lự, Mảng, Si La, Bố Y, La Hủ…, nhiều em trở thành cán bộ, đảng viên, góp phần phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc.
Về chất lượng đội ngũ cán bộ và giáo viên ngày càng nâng cao, hiện đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường có 237 người, trong đó 100% đạt chuẩn và trên chuẩn, 115 giáo viên có trình độ thạc sĩ. Hơn 70 cán bộ, giáo viên có chứng chỉ tiếng dân tộc và kiến thức công tác dân tộc, đáp ứng yêu cầu giáo dục đặc thù.
Bên cạnh đào tạo văn hóa, nhà trường chú trọng giáo dục giá trị văn hóa truyền thống thông qua các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ nghệ thuật dân gian, tái hiện lễ hội, giới thiệu nét văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Thái… nhằm nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và tinh thần đoàn kết trong học sinh.
Một số hạn chế, thách thức trong giai đoạn mới
Dù đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, song việc thể chế hóa và thực thi chính sách giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số vẫn còn những hạn chế, bất cập cần sớm được khắc phục.
Thứ nhất, trong hệ thống các trường Dự bị Đại học dân tộc, việc phối hợp xét tuyển và bố trí chỉ tiêu tiếp nhận học sinh vẫn gặp khó khăn. Khi các cơ sở giáo dục đại học được trao quyền tự chủ theo Luật số 34/2018/QH14 và Nghị định 99/2019/NĐ-CP, việc tiếp nhận học sinh dự bị chủ yếu dựa trên cơ chế thỏa thuận, thiếu sự hướng dẫn thống nhất. Một số trường đại học trọng điểm đặt ngưỡng đầu vào cao, trong khi các trường Công an, Quân đội chưa bố trí chỉ tiêu tiếp nhận, làm hạn chế cơ hội học tập của học sinh dân tộc thiểu số.
Thứ hai, về chính sách hỗ trợ, mặc dù Nghị định 66/2025/NĐ-CP đã mở rộng nhiều chế độ như hỗ trợ tiền ăn, gạo, nhà ở, học phẩm..., nhưng trong bối cảnh giá cả tăng cao, mức hỗ trợ hiện hành chưa đảm bảo tương xứng với chi phí sinh hoạt thực tế của học sinh vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, việc phân loại địa bàn theo tiêu chí kinh tế - xã hội mới đã khiến nhiều xã, thôn không còn thuộc danh mục vùng đặc biệt khó khăn, dẫn đến thu hẹp nguồn tuyển của các trường phổ thông dân tộc nội trú. Việc sáp nhập đơn vị hành chính làm thay đổi địa giới, khiến tiêu chí xác định vùng ưu tiên bị điều chỉnh, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội học tập của học sinh DTTS ở các vùng vẫn còn khó khăn.
Định hướng và giải pháp trong giai đoạn mới
Để phát huy hiệu quả hơn nữa các chính sách giáo dục dân tộc, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý, đảm bảo tính thống nhất và khả thi khi triển khai ở cơ sở; xem xét điều chỉnh mức hỗ trợ học sinh phù hợp với mặt bằng giá và điều kiện thực tế. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với các trường đại học xây dựng cơ chế tuyển sinh linh hoạt, đảm bảo quyền lợi học sinh hệ dự bị dân tộc.
Về phía các cơ sở giáo dục, cần đẩy mạnh liên kết đào tạo với doanh nghiệp, phát triển giáo dục nghề nghiệp và kỹ năng mềm, giúp học sinh dân tộc có thêm cơ hội phát triển sau khi tốt nghiệp. Song song đó, tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc, giáo dục văn hóa bản địa, đảm bảo môi trường học tập thân thiện, bình đẳng và hội nhập.
Những kết quả và nỗ lực tại Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của chính sách giáo dục dân tộc, khẳng định rằng: nếu được quan tâm đúng mức, học sinh vùng dân tộc thiểu số hoàn toàn có thể vươn lên, đạt thành tích cao, đóng góp thiết thực cho sự phát triển bền vững vùng miền núi và đất nước.
Trịnh Thu