Chính sách và cơ sở của giáo dục kỹ năng số
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, kỹ năng số đã trở thành năng lực cơ bản mà mọi công dân cần có để học tập, làm việc và tham gia đời sống xã hội. Theo OECD (2022), kỹ năng số không chỉ bao gồm khả năng sử dụng công nghệ thông tin mà còn bao hàm tư duy số, an toàn số, và năng lực sáng tạo trong môi trường số. UNESCO (2021) cũng nhấn mạnh kỹ năng số là chìa khóa để bảo đảm quyền học tập suốt đời và cơ hội bình đẳng cho mọi người trong xã hội tri thức.
Ở Việt Nam, việc giáo dục kỹ năng số cho học sinh đã có nền tảng pháp lý tương đối đầy đủ. Luật Giáo dục 2019 xác định mục tiêu của giáo dục phổ thông là phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực học sinh, trong đó có năng lực ứng dụng công nghệ. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã lồng ghép nội dung công nghệ thông tin và kỹ năng số trong nhiều môn học, đặc biệt là Tin học, Công nghệ, Hoạt động trải nghiệm. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 131/QĐ-TTg (2022) phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số trong ngành giáo dục, đặt mục tiêu đến năm 2025, 100% cơ sở giáo dục triển khai giảng dạy và quản lý trên nền tảng số, từng bước hình thành hệ sinh thái học tập số.
Ảnh: Internet
Như vậy, về mặt chính sách và lý luận, giáo dục kỹ năng số đã có cơ sở vững chắc để triển khai trong thực tiễn. Tuy nhiên, việc chuyển hóa các định hướng này thành hành động cụ thể trong nhà trường phổ thông vẫn còn nhiều khoảng trống cần lấp đầy.
Thực tiễn và định hướng triển khai ở Việt Nam
Trong thực tế, nhiều trường phổ thông, đặc biệt ở khu vực thành phố, đã có những bước đi tích cực trong giáo dục kỹ năng số. Hệ thống lớp học thông minh, kho học liệu số, hay các dự án trải nghiệm sáng tạo đã bắt đầu được triển khai, mang lại cơ hội cho học sinh rèn luyện kỹ năng số trong môi trường học tập đa dạng. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) cũng đã tổ chức nhiều chương trình bồi dưỡng, tập huấn giáo viên về ứng dụng công nghệ trong dạy học, giúp nâng cao năng lực triển khai chuyển đổi số trong nhà trường.
Tuy nhiên, không khó để nhận thấy những hạn chế trong thực tiễn triển khai. Hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, đặc biệt tại các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo. Không ít học sinh chưa có thiết bị học tập cá nhân, việc tiếp cận Internet còn khó khăn, dẫn đến nguy cơ bất bình đẳng số. Đội ngũ giáo viên vẫn chưa được đào tạo chuyên sâu về giáo dục kỹ năng số. Nhiều giáo viên quen với việc sử dụng thiết bị công nghệ ở mức cơ bản nhưng còn lúng túng khi tổ chức hoạt động học tập nhằm phát triển tư duy số, an toàn số hay sáng tạo số cho học sinh. Bản thân học sinh cũng mới dừng lại ở việc sử dụng thiết bị số cho nhu cầu giải trí hoặc học tập đơn giản, trong khi năng lực khai thác, sáng tạo và bảo vệ an toàn cá nhân trong môi trường mạng chưa được chú trọng đúng mức.
Để giải quyết những hạn chế trên, cần triển khai đồng bộ một số định hướng. Trước hết, về mặt chính sách, kỹ năng số cần được xác định rõ là một năng lực chung, xuyên suốt các môn học, chứ không chỉ giới hạn ở môn Tin học hay Công nghệ. Việc tích hợp nội dung kỹ năng số cần gắn với phương pháp dạy học tích cực, khuyến khích học sinh vận dụng công nghệ trong giải quyết vấn đề thực tiễn. Về hạ tầng, cần ưu tiên đầu tư cho các vùng khó khăn, bảo đảm mọi học sinh đều có cơ hội tiếp cận môi trường học tập số. Về đội ngũ, giáo viên phải được tập huấn định kỳ, có chuẩn năng lực số, và được hỗ trợ để ứng dụng công nghệ trong tổ chức hoạt động dạy học. Ngoài ra, cần chú trọng phát triển kho học liệu số mở, tài nguyên giáo dục trực tuyến phong phú, dễ tiếp cận và được cập nhật thường xuyên. Cuối cùng, cần có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội để hình thành môi trường giáo dục kỹ năng số phong phú, thực chất, gắn với nhu cầu xã hội.
Giáo dục kỹ năng số cho học sinh phổ thông là nhiệm vụ cấp thiết, vừa mang tính chiến lược, vừa mang ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia. Những chính sách và văn bản pháp lý hiện có đã tạo nền tảng thuận lợi, nhưng quá trình triển khai vẫn còn nhiều thách thức cần khắc phục. Bằng việc đồng bộ từ hoàn thiện chính sách, đầu tư hạ tầng, bồi dưỡng đội ngũ đến xã hội hóa giáo dục, Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành thế hệ học sinh phổ thông có năng lực số toàn diện, sẵn sàng tham gia vào nền kinh tế số và hội nhập quốc tế.
Thuý An, Hà Giang
Tài liệu tham khảo
Quốc hội (2019). Luật Giáo dục. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Bộ GDĐT (2018). Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể.
Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định 131/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số trong ngành giáo dục đến 2025, định hướng 2030.
OECD (2022). Future of Education and Skills: OECD Learning Compass 2030. Paris: OECD Publishing