Buổi sinh hoạt chuyên môn liên trường tại trường PTDTNT THCS&THPT Hàm Yên (Ảnh: Trường PTDT nội trú THCS và THPT Hàm Yên – Tuyên Quang)
Từ kho sách đến hệ sinh thái học liệu thông minh
Câu chuyện tại các tỉnh miền núi như Phú Thọ, Tuyên Quang đã phản ánh phần nào xu thế mới trong giáo dục. Tại đây, giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức qua lớp học truyền thống mà còn chia sẻ giáo án, bài giảng trực tuyến thông qua các nền tảng như Zalo hay cổng thư viện học liệu số địa phương. Nhờ đó, nhiều thầy cô ở vùng khó vẫn có thể tiếp cận nguồn tài nguyên chung, tránh bị bỏ lại phía sau trong quá trình chuyển đổi số.
Tuy nhiên, các hình thức chia sẻ này mới chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu trước mắt. Để tạo ra “đột phá” thực sự, cần xây dựng một hệ thống học liệu số quốc gia – nơi mọi giáo viên, học sinh đều có thể tiếp cận một cách công bằng, an toàn và cá nhân hóa. Đây cũng là tinh thần mà Nghị quyết số 71-NQ/TW nhấn mạnh: hiện đại hóa chương trình giáo dục, tăng cường ứng dụng công nghệ và học liệu số để nâng cao chất lượng dạy – học.
Đồng thời, Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã mở ra cơ chế khuyến khích phát triển đặt nền tảng cho việc tích hợp trí tuệ nhân tạo trong quản lý và phân phối học liệu. Bổ sung cho hai định hướng chiến lược này, ngày 15/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết 281/NQ-CP, giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) cùng các địa phương nhiệm vụ xây dựng lộ trình cụ thể về học liệu số từ chuẩn hóa nội dung, đầu tư hạ tầng đến bồi dưỡng đội ngũ giáo viên số.
Mục tiêu đặt ra không chỉ là tạo ra một kho sách điện tử, mà là phát triển hệ sinh thái học liệu thông minh gồm: sách giáo khoa số, bài giảng điện tử, video minh họa, ngân hàng câu hỏi kiểm tra – đánh giá, và công cụ học tập tích hợp AI. Khi được triển khai, hệ thống này sẽ mang lại ba giá trị cốt lõi: công bằng, chất lượng và hiệu quả. Học liệu số cho phép cập nhật nhanh, mở rộng phạm vi tiếp cận tới cả vùng sâu, vùng xa, đồng thời cá nhân hóa hành trình học tập dựa trên năng lực từng học sinh.
Chuyến xe Thư viện lưu động giúp các em học sinh DTTS tiếp cận tri thức dưới nhiều hình thức (Ảnh: Cổng TTĐT tỉnh Tuyên Quang)
Công bằng tiếp cận: giải pháp cho học sinh vùng khó
Một trong những mục tiêu lớn nhất của học liệu số là thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng miền. Thực tế cho thấy, trong khi nhiều trường học ở đô thị đã quen với học trực tuyến, kho dữ liệu số và lớp học STEM, thì tại không ít điểm trường miền núi, thiết bị cơ bản như máy tính, mạng Internet vẫn là thách thức. Theo Bộ GDĐT, hiện vẫn còn sự chênh lệch lớn về số lượng trường có phòng máy đạt chuẩn, cũng như tỷ lệ giáo viên được đào tạo kỹ năng số.
Hệ thống học liệu số hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập. Nhiều trường, địa phương tự xây dựng kho riêng nhưng thiếu liên thông, kiểm soát chất lượng chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng học liệu bị phân mảnh; cơ sở pháp lý về bản quyền và kiểm định nội dung cũng chưa thống nhất, dẫn đến tình trạng học liệu từ mạng xã hội, YouTube được sử dụng tự phát, khó đảm bảo tính chính thống. Bên cạnh khoảng cách số vẫn là rào cản lớn thì hạ tầng ở vùng khó, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa đủ mạnh, trong khi đội ngũ giáo viên còn hạn chế kỹ năng xây dựng và tổ chức lớp học với học liệu số. Hệ quả là học sinh miền núi có nguy cơ bị bỏ lại phía sau.
Triển vọng xây dựng hệ thống học liệu số không chỉ nằm ở việc số hóa tài liệu hiện có, mà còn ở khả năng ứng dụng AI và phân tích dữ liệu lớn để tối ưu hóa việc học. AI có thể gợi ý lộ trình học tập cá nhân hóa, chấm bài tự động, phát hiện lỗ hổng kiến thức và hỗ trợ giáo viên điều chỉnh phương pháp. Trong giai đoạn tới, để công nghệ số và AI thực sự trở thành “cầu nối” của giáo dục, các chuyên gia giáo dục cho rằng cần tập trung vào những giải pháp trọng tâm. Trước hết là đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, từ số hóa sách giáo khoa, ngân hàng đề đến phát triển hệ thống quản trị học tập. Song song, đầu tư hạ tầng đồng bộ như Internet, phòng máy tính chuẩn, các trung tâm STEM và phòng thí nghiệm số hoặc thư viện số lưu động, giúp học sinh vùng khó tiếp cận khoa học - công nghệ như học sinh thành thị. Việc hợp tác công - tư cũng đóng vai trò then chốt khi doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển nền tảng học liệu, cung cấp thiết bị và giải pháp AI. Ngoài ra, cần xây dựng kho học liệu mở, đa ngôn ngữ, phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số; đồng thời nâng cao năng lực số cho đội ngũ giáo viên và có chính sách khuyến khích học sinh miền núi tham gia các lớp kĩ năng công nghệ, STEM thông qua học bổng, lớp chuyên đề và câu lạc bộ công nghệ.
Tầm nhìn xa hơn, học liệu số và AI không chỉ phục vụ việc học của từng cá nhân, mà còn góp phần xây dựng công dân số, hội nhập toàn cầu. Việc xây dựng hệ thống học liệu số quốc gia là bước đi mang tính chiến lược, gắn liền với định hướng của Đảng và Nhà nước trong kỷ nguyên số. Thách thức tuy còn nhiều nhưng những chính sách mới như Nghị quyết số 71-NQ/TW, Nghị quyết số 57-NQ/TW đã mở ra khung pháp lý và động lực để hành động. Nếu triển khai quyết liệt và đồng bộ, học liệu số sẽ không chỉ là “công cụ” mà trở thành cầu nối tri thức, giúp giáo dục Việt Nam đạt tới mục tiêu công bằng, chất lượng và hiệu quả trong kỷ nguyên đột phá công nghệ.
Bảo Ngọc, Hà Giang
Tài liệu tham khảo:
Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.