Từ rào cản cũ đến tư duy đổi mới
Trước đó, cơ chế tự chủ và hội đồng trường đã được quy định trong Luật GDNN năm 2014, nhằm thể chế hóa chủ trương của NQ29 về phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ, mới chỉ có ba trường cao đẳng được thí điểm tự chủ. GS.TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến chỉ ra 4 rào cản lớn trong tổ chức thực hiện: “Nhận thức về tự chủ nhà trường chưa thống nhất; sự ràng buộc quyền tự chủ với yêu cầu tự bảo đảm các khoản chi; sự níu kéo của các lợi ích nhóm; sự yếu kém về năng lực tổ chức thực hiện”.
Với tư duy đổi mới, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển GDĐT đã tháo gỡ các rào cản trên với quy định: “Bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở GDĐH, cơ sở GDNN không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính”. Đây là chủ trương mang tính đột phá, theo tinh thần kiến tạo phát triển để các cơ sở GDNN có thể chủ động thích ứng và đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới của một thị trường lao động biến động.
GS.TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến chỉ ra 4 rào cản lớn trong tổ chức thực hiện tự chủ GDNN (Ảnh: Trường Lý Thái Tổ)
Vai trò và sứ mệnh mới của GDNN trong bối cảnh ngày nay
Trên thế giới GDNN đã và đang được định vị lại. UNESCO(2015) khẳng định: “GDNN góp phần phát triển bền vững bằng cách trao quyền cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng để thúc đẩy việc làm, công việc đàng hoàng và HTSĐ nhằm xúc tiến tăng trưởng kinh tế toàn diện và bao trùm, cạnh tranh, công bằng xã hội và bền vững môi trường”. Hội nghị Thượng đỉnh Chuyển đổi giáo dục, tháng 9/2022 tại New York cũng đã ra tuyên bố “Cùng nhau chuyển đổi giáo dục vì các tương lai công bằng và bền vững”. Theo đó, GDNN cũng phải chuyển đổi để đáp ứng thành công tiến trình chuyển đổi của các nền kinh tế và xã hội sang xanh, số và bao trùm.
Ở Việt Nam, nhận thức về vai trò và sứ mệnh của GDNN cũng có sự vận động, phát triển phù hợp với bối cảnh đất nước và tương thích với các xu thế tiến bộ trên thế giới. GDNN Việt Nam từ năm 2011 đến nay đã có nhiều nỗ lực và bước tiến của GDNN qua từng năm trên những lĩnh vực chính, bao gồm chính sách phát triển GDNN; thị trường lao động liên quan đến GDNN; mạng lưới cơ sở GDNN; tuyển sinh và tốt nghiệp; nhà giáo và cán bộ quản lý GDNN; tiêu chuẩn kỹ năng nghề và đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng GDNN; tài chính cho giáo dục nghề nghiệp; hợp tác với doanh nghiệp trong GDNN (Viện Khoa học GDNN, 2011-2023). Như vậy, GDNN đóng vai trò then chốt trong phát triển nguồn nhân lực, với tư cách là khâu đột phá trong việc đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển bền vững và hội nhập.
Tuy nhiên, GDNN vẫn tồn tại những hạn chế: Chất lượng GDNN vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; hiệu quả đào tạo chưa cao; quy mô GDNN còn nhỏ, cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp; phương thức đào tạo chậm đổi mới, chưa linh hoạt; công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động chưa được chú trọng; nhiều cơ sở GDNN thiếu cơ sở hạ tầng về phòng học thông minh, thư viện số, phòng thí nghiệm, phòng thực hành và các trang thiết bị phục vụ cho thực hành, thực nghiệm nghề nghiệp.
Kết luận 91 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện NQ 29 yêu cầu: “Tập trung đầu tư hiện đại hóa GDNN. Tiếp tục phát triển GDNN theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, gắn với thị trường lao động…”. Tức là tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở GDNN, GDĐH công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn”.
Với những cơ hội mới chưa từng có được mở ra từ bốn nghị quyết của Bộ Chính trị, cùng việc thống nhất đầu mối quản lý về giáo dục và GDNN trong Bộ GDĐT, hiện Luật GDNN mới đang được xây dựng theo hướng tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, điểm nghẽn trong thực tiễn nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng GDNN; kiến tạo môi trường pháp lý thuận lợi, đồng bộ, thống nhất để cải cách, hiện đại hóa GDNN, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao; chuẩn bị cho lực lượng lao động trước các tác động của CMCN4 và TTNT, cung cấp các kỹ năng cần thiết để duy trì lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, sẵn sàng cho chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, đảm bảo sự hòa nhập xã hội, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
Trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN là chiến lược sống còn
Để phát huy vai trò và sứ mệnh của GDNN trong bối cảnh thị trường lao động chịu tác động những tiến bộ về công nghệ, đặc biệt là TTNT, thì việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN không chỉ là một thay đổi về mặt quản lý mà còn là một chiến lược sống còn để đảm bảo hệ thống này có thể linh hoạt và phản ứng kịp thời với các xu thế toàn cầu.
Theo TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến, quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện của cơ sở GDNN được thể hiện trong bảng dưới đây:
Quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện của cơ sở GDNN (TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến -Chuyên gia Giáo dục Hiệp hội các trường Đại học Cao đẳng)
Tuy nhiên, các quyền tự chủ trên đều phải hướng tới phát huy vai trò và sứ mệnh của GDNN, bảo đảm để GDNN không chỉ cung cấp phẩm chất và năng lực cho người học trong việc tìm việc làm và tự tạo việc làm, mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bền vững môi trường. Nhìn từ góc độ của NQ71 thì các quyền tự chủ này phải nằm trong một khung pháp lý chung nhằm cải cách, hiện đại hóa GDNN, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao.
Có thể đặt quyền tự chủ toàn diện và đầy đủ của các cơ sở GDNN trong mối quan hệ gắn kết với các mục tiêu phải đạt được như sau:
Quyền tự chủ toàn diện và đầy đủ của các cơ sở GDNN trong mối quan hệ gắn kết với các mục tiêu phải đạt được (TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến -Chuyên gia Giáo dục Hiệp hội các trường Đại học Cao đẳng)
Quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện gắn với trách nhiệm giải trình
Trách nhiệm giải trình là trách nhiệm của nhà trường trong việc đảm bảo và chứng tỏ với cơ quan có thẩm quyền và các bên có liên quan về việc nhà trường đã hoàn thành nhiệm vụ đặt ra cho nó. Khi nhà trường được trao quyền tự chủ thì điều mà nhà nước và xã hội quan tâm trong báo cáo giải trình chủ yếu là kết quả hoạt động của nhà trường, những cam kết mà nhà trường đã tuyên bố trong chiến lược phát triển khi được trao quyền tự chủ.
Giữa tự chủ và trách nhiệm giải trình là mối quan hệ tương hỗ và cân bằng. Mối quan hệ tương hỗ nghĩa là, nếu tự chủ tạo động lực và sự linh hoạt để các cơ sở GDNN phát triển, thì trách nhiệm giải trình đảm bảo rằng sự phát triển đó đạt được các mục tiêu đã cam kết, đáp ứng vai trò và sứ mệnh của GDNN. Mối quan hệ cân bằng nghĩa là mức độ giải trình phải tương ứng với mức độ tự chủ.
Trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN khi thực hiện quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện sẽ phải thực hiện như sau: Một là, cơ sở GDNN cần xây dựng và công bố chiến lược phát triển rõ ràng, các tiêu chí cam kết chất lượng, hệ thống các chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động (KPI) và các mục tiêu cụ thể theo từng lĩnh vực hoạt động. Hai là, phải thực hiện các báo cáo đánh giá định kỳ trên cơ sở bằng chứng (thông qua hệ thống thông tin quản lý GDNN (TVET-MIS) về kết quả đào tạo (tỷ lệ tốt nghiệp, tỷ lệ có việc làm, phản hồi của doanh nghiệp), hiệu quả chi phí, đổi mới sáng tạo và tác động xã hội. Ba là, công khai minh bạch tài chính, phương pháp quản lý, đồng thời tham gia vào các đánh giá độc lập, giám sát của bên thứ ba để nâng cao uy tín và cải thiện liên tục.
Để đảm bảo yêu cầu nêu trên, các cơ sở GDNN đều phải xây dựng và bảo trì các cơ sở dữ liệu phù hợp và cập nhật, cần thiết cho những chứng minh định lượng trong báo cáo. Đó là các chứng minh nhằm chỉ ra việc hoàn thành các KPI (về giảng dạy, học tập, nghiên cứu, quy mô phát triển, kết quả đầu ra, thu chi v.v…), sự phát triển của nhà trường trên những phương diện nhất định từ năm này sang năm khác, sự đánh giá so sánh trong tương quan giữa trường này với trường khác.
Bên cạnh các hệ thống giải trình nêu trên do nhà trường thực hiện, còn phải kể thêm hai hệ thống giải trình độc lập do cơ quan bên ngoài thực hiện. Đó là kiểm toán và kiểm định chất lượng.
Mô hình quản trị mới - Tinh gọn nhưng nhiều thách thức
Thông thường trách nhiệm giải trình nêu trên gắn liền với một mô hình quản trị quen thuộc trong các cơ sở giáo dục được giao quyền tự chủ. Đó là mô hình hội đồng trường. Hội đồng trường từ lâu được xem là cơ quan tham mưu, giám sát quan trọng trong hoạt động quản trị của các cơ sở GDNN. Theo một nghĩa nào đó, hội đồng trường chính là cơ chế mới để kiểm soát hoạt động của nhà trường khi nhà nước từ bỏ vai trò kiểm soát để giao quyền tự chủ cho nhà trường.
Với chủ trương của NQ71 về việc không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập, tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng, thực hiện bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục, thể hiện sự chuyển đổi sang mô hình quản trị mới theo hướng tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong quản trị, quản lý.
Để thực sự phát huy hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của mô hình quản trị mới, cần phải xây dựng các cơ chế cân bằng quyền lực, tránh hiện tượng lạm quyền và chủ quan trong quản trị, quản lý. Sự mất cân bằng giữa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình rất dễ dẫn đến hệ quả tiêu cực như thiếu minh bạch, giảm uy tín của cơ sở GDNN, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và niềm tin của các bên liên quan.
Mô hình quản trị mới cũng đi kèm với các thách thức và rủi ro tiềm tàng
Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra một chủ trương mang tính cách mạng: bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở GDNN, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Cùng với đó là việc xác lập một mô hình quản trị mới. Đây là một bước đi chiến lược, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế và chính sách, hướng tới kiến tạo phát triển để các cơ sở GDNN có thể chủ động thích ứng và đáp ứng kịp thời các yêu cầu mới của thị trường lao động biến động nhanh chóng dưới tác động sâu rộng của cuộc CMCN4 và TTNT.
Tuy nhiên, mô hình quản trị mới cũng đi kèm với các thách thức và rủi ro tiềm tàng. Thách thức lớn nhất là khối lượng công việc khổng lồ khi một người đảm nhiệm cả hai chức danh chủ chốt sẽ tạo ra áp lực rất lớn về năng lực, thời gian và sức lực. Còn rủi ro lớn nhất là sự tập trung quyền lực có thể dẫn đến thiếu dân chủ, lạm quyền và độc đoán, tác động tiêu cực đến việc phát huy quyền tự chủ nhà trường. Một rủi ro tiềm ẩn nữa là giảm thiểu sự tham gia của các bên liên quan, làm hạn chế nền tảng của quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình.
Để chủ trương của Đảng đi vào đời sống, việc thể chế hóa cần bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu quản lý và yêu cầu kiến tạo phát triển. Trước hết, việc xây dựng Luật GDNN mới, các nghị định, thông tư hướng dẫn cần được điều chỉnh, bổ sung cần: Quy định rõ ràng quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện; Quy định rõ ràng trách nhiệm giải trình tương xứng với quyền tự chủ; Quy định rõ ràng vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của bí thư cấp ủy đồng thời là người đứng đầu cơ sở GDNN; Quy định phân cấp, phân quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản trị, quản lý của cơ sở GDNN cùng các cơ chế kiểm soát quyền lực đi đôi với phát huy dân chủ cơ sở; Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cấp quản lý nhà nước, tổ chức xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp trong quản trị GDNN.
Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và các quy định hướng dẫn nêu trên không chỉ là yêu cầu về mặt hành chính mà là chiến lược trọng tâm để đổi mới toàn diện GDNN Việt Nam.
Trịnh Thu