Giai đoạn 1945 - 1954: Bình dân học vụ và Xây dựng nền văn hoá Việt Nam mới
Đường lối giáo dục trong giai đoạn này mang đậm tính cách mạng, bám sát thực tiễn lịch sử và thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay sau Cách mạng, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là “diệt giặc dốt”, được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân. Cùng với đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi của Đề cương Văn hoá Việt Nam năm 1943: Dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), Khoa học hoá (chống lối học giáo điều), và Đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân).
Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến". Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai. Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.
Giai đoạn 1945 - 1954: Học để kháng chiến, để kiến quốc
Đây là một thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc. Đường lối giáo dục trong giai đoạn này mang đậm tính cách mạng, bám sát thực tiễn lịch sử và thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay sau Cách mạng, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là “diệt giặc dốt”, được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân. Từ đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hoá (chống lối học giáo điều), và đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân). Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm “Học để kháng chiến”. Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai. Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.
Giai đoạn 1945 - 1954 với những thành tựu đạt được về xoá mù chữ, phổ biến chữ Quốc ngữ, phát triển văn hoá, đào tạo “Công dân kháng chiến” có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến mà còn đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo.
(Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giáo dục. Ảnh: Tư liệu)
Giai đoạn 1954 - 1975: Giáo dục kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế và con đường phát triển đối lập. Miền Bắc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn miền Nam nằm dưới quyền chi phối của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Bối cảnh đó đã tác động sâu sắc khiến nền giáo dục giai đoạn này trở nên đa dạng, đạt được những thành tựu nhất định và có sự khác biệt về bản chất, mục tiêu của giáo dục hai miền. Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là một mặt trận trọng yếu gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc Cải cách giáo dục năm 1956 và Nghị định số 1027-TTg (27/8/1956) ban hành Chính sách giáo dục phổ thông, xác định mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ toàn diện, trung thành với Tổ quốc, có tài, có đức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất đất nước. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong giai đoạn này còn được thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960). Văn kiện tiếp tục nhấn mạnh giáo dục phải phục vụ đường lối cách mạng, bồi dưỡng thế hệ lao động làm chủ, có văn hoá, kỹ thuật, sức khoẻ, góp phần đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ nhân dân. Các nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp lao động sản xuất và nhà trường gắn với xã hội trở thành kim chỉ nam cho toàn ngành. Đặc biệt, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, Chỉ thị 169-CT/TW ngày 14/02/1968 của Ban Bí thư đã nhấn mạnh nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ, lao động kỹ thuật và chuẩn bị nguồn nhân lực cho công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng là giáo dục vừa phục vụ trực tiếp sự nghiệp kháng chiến, vừa chuẩn bị chiến lược lâu dài cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Thành tựu nổi bật nhất của giáo dục trong giai đoạn 1954 - 1975 là miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Đến năm 1958 có 93,4% nhân dân độ tuổi 12 - 50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết. Đây là cơ sở cho việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, kinh tế của đất nước. Cuộc cải cách giáo dục 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo, trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Ngay cả trong chiến tranh, giáo dục miền Bắc vẫn duy trì ổn định, bảo đảm “học không gián đoạn”. Quy mô giáo dục tăng đều, số học sinh phổ thông từ hơn 4,6 triệu (1972 - 1973) lên hơn 5,2 triệu (1974 - 1975). Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, nền giáo dục cách mạng đã chứng minh sự linh hoạt, bền bỉ, xây dựng mạng lưới trường lớp dân chủ, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến, in ấn và phổ biến hàng triệu bản sách giáo khoa.
Giai đoạn 1975 - 1986: Giáo dục hợp nhất và Giáo dục cải cách
Quá trình phát triển của giáo dục trong thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn 1975 - 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến: tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước; giai đoạn 1979 - 1986: triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc.
Tháng 6 năm 1975, chỉ hơn một tháng sau ngày giải phóng, Ban Bí thư đã ban hành hai chỉ thị lịch sử (số 221-CT/TW và 222-CT/TW) về công tác giáo dục ở miền Nam. Các chỉ thị này đóng vai trò kim chỉ nam cho giai đoạn đầu, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm: 1, Tiếp quản và cải tạo: nhanh chóng đưa giáo dục miền Nam trở lại hoạt động bình thường, cải tạo nền giáo dục cũ theo định hướng xã hội chủ nghĩa; 2, Xoá mù chữ và Bổ túc văn hoá: xác định đây là nhiệm vụ hàng đầu để nâng cao dân trí, tạo nền tảng đào tạo cán bộ cho chế độ mới; 3, Phát triển hệ thống giáo dục: mở rộng mạng lưới trường lớp từ mầm non đến phổ thông, ưu tiên tiếp nhận con em nhân dân lao động; 4, Thống nhất quản lý: quốc hữu hoá toàn bộ trường tư thục, đưa hệ thống giáo dục đại học vào dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Định hướng chiến lược này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IV (1976), xác lập nền tảng tư tưởng cho sự phát triển giáo dục: “Giáo dục là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc”. Giáo dục được xác định là một bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, với mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 14-NQ/TW (tháng 1/1979) về Cải cách giáo dục được xem là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chính thức khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba. Nghị quyết này mang tính chất như một “cương lĩnh cải cách giáo dục lâu dài”, đề ra các mục tiêu và giải pháp cốt lõi: 1, Thống nhất hệ thống phổ thông: xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, chia làm hai bậc: phổ thông cơ sở (9 năm) và phổ thông trung học (3 năm), xoá bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam; 2, Đổi mới nội dung và phương pháp: biên soạn một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước theo tinh thần hiện đại, thiết thực, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; 3, Thực hiện nguyên lý giáo dục mới: nhấn mạnh “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh; 4, Mục tiêu đào tạo: xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với đầy đủ các phẩm chất về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.
Giai đoạn 1986 - 2000: Quốc sách hàng đầu và xã hội đồng hành
Đây là chặng đường lịch sử đầy biến động, chứng kiến cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và của giáo dục Việt Nam. Gắn liền với tiến trình đổi mới của đất nước, ngành Giáo dục đã nỗ lực đổi mới, không chỉ vượt qua khủng hoảng mà còn có những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội - chính trị nghiêm trọng và sự suy thoái của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khởi xướng đường lối đổi mới, mang tính bước ngoặt về tư duy phát triển với sự chuyển dịch từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về giáo dục, Đại hội đã xác định phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mở đường cho xã hội hóa giáo dục. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 6 Khóa VI (1989) đề ra chủ trương đa dạng hóa hình thức đào tạo và huy động nguồn lực xã hội, mở rộng các loại hình trường lớp ngoài công lập. Cơ chế tài chính giáo dục dần chuyển từ “nhà nước bao cấp toàn bộ” sang mô hình huy động nhiều nguồn, cho phép thu học phí. Khi kinh tế bắt đầu hồi phục và có những bước phát triển, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), đường lối đổi mới giáo dục được khẳng định ở một tầm cao mới: giáo dục và đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” với nhiệm vụ “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) và Nghị quyết TW 2 khóa 8 (1996) tiếp tục đường lối đó, xác định rõ phương hướng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; khẳng định việc xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và các hình thức đào tạo. Các chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa thông qua các luật, ví dụ như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), đặc biệt là Luật Giáo dục (1998), tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ và minh bạch cho toàn bộ hệ thống.
(Đại hội lần thứ VI của Đảng khởi xướng công cuộc Đổi mới đất nước. Ảnh: Tư liệu)
Giai đoạn 2000 - 2025: Đổi mới căn bản, toàn diện và Động lực then chốt để phát triển đất nước
“Trong bối cảnh toàn cầu hoá, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, giáo dục và đào tạo càng phải giữ vững vị trí quốc sách hàng đầu, trở thành động lực then chốt để phát triển đất nước” - Phát biểu của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm tại Lễ Khai giảng năm học 2025 - 2026. |
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2025, Việt Nam đã có những thay đổi đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị và xã hội, được thúc đẩy bởi quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghệ số. Giáo dục Việt Nam đã không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều bước tiến đột phá, kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại. Giai đoạn đầu những năm 2000, giáo dục tập trung vào việc mở rộng quy mô; từ năm 2011 đến 2020, ngành đã chuyển hướng sang đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế. Sau năm 2020, trước những biến động phức tạp, ngành đã có những giải pháp đột phá để duy trì các hoạt động giáo dục, khẳng định vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước.
(Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm phát biểu tại Lễ Khai giảng năm học 2025 - 2026. Ảnh: Trần Hiệp-MOET)
Trước những yêu cầu và thách thức của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước giai đoạn này đã hình thành một hệ thống tư tưởng nhất quán, có tính kế thừa và liên tục phát triển. Hệ thống này được định hình bởi những thay đổi triết lí sâu sắc: từ cơ chế quản lí tập trung và nguồn lực chủ yếu từ ngân sách nhà nước sang một nền giáo dục được xã hội hoá; chuyển từ giáo dục trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; chuyển từ ứng dụng công nghệ thông tin đơn thuần sang chuyển đổi số toàn diện… Những chính sách này không chỉ khẳng định quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mà còn hướng tới xây dựng một nền giáo dục nhân văn, hiện đại, đảm bảo công bằng và chủ động hội nhập quốc tế. Quan điểm này được thể hiện rõ qua các nội dung sau:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu: đây là quan điểm nền tảng được thể hiện nhất quán trong các chính sách. Văn bản tài liệu nhấn mạnh rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, và sự nghiệp giáo dục là của toàn dân. Điều này được cụ thể hóa bằng việc ưu tiên nguồn lực, với Nghị quyết số 29-NQ/TW (năm 2013) của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, trong đó khẳng định tầm quan trọng của việc ưu tiên chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đạt tối thiểu 20% tổng chi.
Xây dựng nền giáo dục nhân dân, dân tộc, hiện đại, xã hội chủ nghĩa: chính sách này hướng đến việc đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và xây dựng một xã hội học tập. Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 là văn bản pháp lý quan trọng cụ thể hóa quan điểm này, đảm bảo mọi công dân đều có quyền học tập bình đẳng, bất kể dân tộc, tôn giáo, giới tính hay hoàn cảnh kinh tế.
Đổi mới căn bản, toàn diện: đây là một trong những chủ trương lớn nhất của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Sự đổi mới này nhằm tạo ra con người Việt Nam phát triển toàn diện và xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp. Nghị quyết số 29-NQ/TW là văn bản then chốt định hướng cho cuộc cách mạng này, tập trung vào việc chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.
(Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn thay mặt ngành Giáo dục đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất. Ảnh: Trần Hiệp-MOET)
“So với các nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới, ngành Giáo dục còn rất nhiều điều phải phấn đấu, phải làm tốt hơn. Nhưng với xuất phát điểm như vậy, hoàn cảnh như vậy, điều kiện và chi phí như vậy, những gì mà cả nước và ngành Giáo dục đã làm được trong 80 năm qua, đó thực sự là một thành tựu hết sức to lớn và rất đỗi tự hào, nếu không muốn nói là một kỳ tích” - Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn. |
Hội nhập quốc tế sâu rộng: chính sách giáo dục đã chuyển từ bị động sang chủ động hội nhập. Điều này được cụ thể hóa trong Quyết định số 711/QĐ-TTg (năm 2011) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020. Mục tiêu là tham gia và khẳng định vị thế trên các diễn đàn giáo dục quốc tế trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời học hỏi những mô hình giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục: đây là một cuộc cách mạng thay đổi cách dạy, học, quản lý và đánh giá, nhấn mạnh việc xây dựng một hệ sinh thái giáo dục số. Quyết định số 131/QĐ-TTg (năm 2022) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 -2025, định hướng đến năm 2030” là một trong những văn bản quan trọng nhất, định hình chiến lược này.
Nhìn lại chặng đường 2000 - 2025, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết. Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Nguyễn Minh