Từ các lớp học bình dân học vụ những ngày đầu cách mạng, đến những giảng đường đại học hiện đại, nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành khoa học, công nghệ, giáo dục Việt Nam đã đi qua một hành trình đầy gian khó nhưng cũng rất đỗi tự hào. 80 năm qua, từ một đất nước có tới 95% dân số mù chữ, Việt Nam nay đã có hơn 52.000 trường học; 1,6 triệu nhà giáo; 243 trường đại học, nhiều cơ sở đào tạo đã lọt vào nhóm 500 trường tốt nhất thế giới. Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trò chuyện với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo để cùng nhìn lại chặng đường phát triển và những dấu ấn đặc biệt của ngành.

Thưa Phó Giáo sư, là một trong những nhà quản lý giáo dục gắn bó nhiều năm với ngành, chứng kiến nhiều giai đoạn chuyển mình của giáo dục nước nhà, theo ông, đâu là những dấu ấn lớn trong tiến trình lịch sử phát triển của ngành Giáo dục?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, có thể thấy mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc đều gắn liền với một dấu ấn đặc biệt của ngành Giáo dục. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, khi đất nước còn bộn bề khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “diệt giặc dốt”, mở ra một cao trào học chữ vô cùng sôi nổi. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng triệu người dân đã thoát nạn mù chữ. Đó chính là nền tảng đầu tiên để xây dựng một quốc gia văn minh, hiện đại.
Tiếp đó, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, giáo dục vẫn được duy trì và phát triển ngay cả trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Những lớp học trong hầm, trên chiến khu, những thầy cô vừa dạy học vừa tham gia kháng chiến đã góp phần đào tạo nên những thế hệ trí thức yêu nước, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là một dấu ấn không thể phai mờ.
Sau ngày đất nước thống nhất, giáo dục bước vào giai đoạn mới: vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa xây dựng hệ thống giáo dục toàn diện. Đặc biệt, từ công cuộc Đổi mới năm 1986, giáo dục có những bước phát triển mạnh mẽ, mở rộng quy mô, đa dạng hoá loại hình đào tạo, đưa tri thức đến với mọi tầng lớp nhân dân.
Có thể nói, từ xoá mù chữ, phổ cập tiểu học, trung học… đến xây dựng hệ thống đại học và sau đại học, giáo dục Việt Nam đã đi một hành trình dài. Mỗi giai đoạn đều để lại một dấu mốc quan trọng. Nhưng nhìn chung, đó là hành trình đưa dân tộc ta từ một dân tộc mù chữ trở thành một đất nước có nguồn nhân lực ngày càng chất lượng, sẵn sàng hội nhập với thế giới.
Trong bối cảnh mới, đặc biệt khi đất nước hội nhập sâu rộng, ông nhìn nhận như thế nào về những yêu cầu đặt ra cho giáo dục nước nhà?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Hội nhập quốc tế mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Giáo dục Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở việc đào tạo con người biết chữ, biết nghề, mà còn phải hướng tới đào tạo những công dân có năng lực hội nhập, có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học - công nghệ và nền kinh tế số.
Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục phải đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, phương pháp, quản lý và cơ chế chính sách. Giáo dục không chỉ dạy chữ, dạy nghề, mà còn phải giúp người học hình thành năng lực sáng tạo, khát vọng cống hiến và trách nhiệm xã hội.
Năm 2013, Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới văn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ra đời đã chuyển từ mô hình thầy truyền đạt - trò tiếp thu sang mô hình lấy học sinh làm trung tâm. Thay vì giáo viên đưa ra thông tin thì bây giờ là đặt câu hỏi để học sinh chủ động tìm hiểu và phát huy năng lực sáng tạo, tư duy, thay vì chỉ học thuộc lòng. Cùng với đó, sự hỗ trợ của công nghệ, đặc biệt là AI và các công cụ như chat GPT giúp giáo viên và học sinh có thể tra cứu, học tập nhanh chóng, thay cho việc trước đây phải mất hàng tháng tìm tài liệu trong thư viện.
Như vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, giáo dục nước ta đứng trước những yêu cầu hoàn toàn mới. Nếu trước đây, nhiệm vụ chính là phổ cập, nâng cao dân trí, thì nay giáo dục phải hướng tới việc đào tạo nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh trong môi trường toàn cầu. Nghĩa là, học sinh - sinh viên không chỉ cần kiến thức, mà còn phải có kỹ năng, ngoại ngữ, năng lực số và tư duy sáng tạo. Hội nhập cũng đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng. Chúng ta không thể chỉ so sánh trong phạm vi trong nước, mà còn phải đặt giáo dục Việt Nam trong mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Vì vậy, việc đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, cũng như xây dựng hệ thống quản trị giáo dục hiện đại, minh bạch, hiệu quả là vô cùng cần thiết.
Đặc biệt, Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo vừa được ban hành đã nhấn mạnh rõ định hướng này. Nghị quyết đặt mục tiêu tạo ra những đột phá về chất lượng, thể chế và nguồn lực, coi giáo dục và đào tạo là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây chính là cơ sở quan trọng để giáo dục Việt Nam không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước, mà còn sẵn sàng hội nhập sâu rộng với thế giới.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ (bên trái)
Bên cạnh những thành tựu, theo ông, nỗi trăn trở lớn của ngành Giáo dục nhiều năm qua là gì?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Thành tựu của ngành Giáo dục trong nhiều năm qua là rất lớn, nhưng đi cùng với đó cũng còn nhiều nỗi trăn trở. Nhiều năm công tác trong ngành Giáo dục, nỗi trăn trở lớn nhất của tôi là câu chuyện phân luồng học sinh. Từ khi Nghị quyết 29 được ban hành, chúng ta đã xác định rất rõ định hướng phải phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, nhưng trên thực tế chưa có những giải pháp đủ mạnh để thực hiện hiệu quả. Phân luồng không chỉ là chia đối tượng học sinh, mà phải có những “dòng chảy” phù hợp để đón nhận học sinh sau phân luồng, tức là phải xây dựng hệ thống trường nghề, trường trung cấp đủ sức hấp dẫn, tạo động lực và cơ hội phát triển cho các em.
Bên cạnh đó, vấn đề thi cử cũng là một áp lực kéo dài. Hiện nay, học sinh Việt Nam phải trải qua nhiều kỳ thi: trước đây có thi lên trung học cơ sở, thi vào trung học phổ thông, thi tốt nghiệp, thi đánh giá năng lực… Điều này không chỉ tạo gánh nặng cho học sinh và phụ huynh, mà còn gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Ở một số quốc gia, ví dụ như Singapore - một trong những quốc gia có nền giáo dục nổi tiếng, chỉ tổ chức 2 kỳ thi quan trọng: một lần ở cuối trung học cơ sở để phân luồng, một lần ở cuối trung học phổ thông để xét vào đại học. Cách làm này tạo ra sự công bằng, minh bạch. Học sinh có động lực học tập để vào được trường tốt, còn các trường cũng có áp lực nâng cao chất lượng để khẳng định vị trí. So sánh như vậy để thấy rằng, trăn trở của chúng ta không chỉ là câu chuyện quá tải thi cử, mà sâu xa hơn là chưa tìm được cơ chế phân luồng hợp lý, hiệu quả - một vấn đề then chốt để tạo sự cân bằng trong hệ thống giáo dục, giảm áp lực xã hội và khai thác tốt hơn tiềm năng của từng học sinh.
Thưa Phó Giáo sư, nhìn lại hành trình 80 năm và hướng tới tương lai, ông có kỳ vọng gì cho giáo dục Việt Nam?
Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Kỳ vọng lớn nhất của tôi là giáo dục Việt Nam sẽ thực sự trở thành động lực then chốt, xứng đáng với vị trí quốc sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước đã khẳng định. Chúng ta cần xây dựng một nền giáo dục công bằng, chất lượng, hội nhập, vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa đủ sức cạnh tranh toàn cầu.
Có thể thấy, thời gian qua ngành Giáo dục đã và đang triển khai nhiều quyết sách quan trọng, tạo dấu ấn lớn trong sự phát triển như Luật Nhà giáo; Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị; thực hiện miễn học phí cho học sinh; phổ cập mầm non cho trẻ từ 3-5 tuổi; xây dựng trường nội trú tại các xã biên giới để học sinh vùng khó khăn được học hành thuận lợi; cơ chế tài chính ưu đãi, hỗ trợ học phí cho người học các ngành khoa học cơ bản, STEM, bán dẫn… Chuỗi quyết sách này đã tạo thành một “dòng chảy đổi mới” liên tục, hướng đến nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đảm bảo công bằng, bình đẳng cho mọi học sinh trên khắp các vùng miền. Đây là những mục tiêu lớn mà những người làm giáo dục như chúng tôi luôn cố gắng hướng đến trong suốt quá trình công tác.
Tôi tin tằng giáo dục chính là nơi ươm mầm khát vọng, nơi hình thành và lan toả tinh thần dân tộc, tinh thần sáng tạo, từ đó chuyển hoá thành sức mạnh cho sự phát triển quốc gia. Khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng chỉ có thể thành hiện thực khi chúng ta có nguồn nhân lực chất lượng cao. Muốn vậy, giáo dục phải đi trước một bước, phải đặt nền móng vững chắc cho tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Phó Giáo sư!
Hà Giang