Nghị quyết 71 và khát vọng đột phá phát triển giáo dục Việt Nam

Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời đã đặt nền móng quan trọng, mở ra cơ hội hiện thực hoá khát vọng nâng tầm chất lượng nguồn nhân lực và vị thế quốc gia. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa, tác động và triển vọng của Nghị quyết 71, Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trò chuyện với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Nhĩ - nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo xoay quanh chủ đề này.

Ảnh minh hoạ

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thời cơ và thách thức, giáo dục Việt Nam được kỳ vọng sẽ có những bước chuyển mang tính đột phá để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh và sáng tạo. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước công nghiệp hiện đại, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, giáo dục và đào tạo càng phải giữ vững vị trí quốc sách hàng đầu, trở thành động lực then chốt để phát triển đất nước. Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng, mang tầm nhìn chiến lược, với những mục tiêu lớn, cụ thể, những nhiệm vụ, giải pháp đột phá mạnh mẽ, đưa giáo dục và đào tạo Việt Nam vào dòng chảy của giáo dục thế giới.

Thưa Phó Giáo sư, trong tiến trình phát triển của ngành Giáo dục, đã có những quyết sách quan trọng nào được triển khai? Nghị quyết 71 mới ban hành có vị trí và tầm vóc ra sao so với những Nghị quyết trước đó? Xin ông cho biết.

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Nếu nhìn lại lịch sử, có thể thấy giáo dục Việt Nam luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Trước Cách mạng Tháng Tám, hệ thống giáo dục Việt Nam được chia thành nhiều cấp độ khác nhau như: sơ học (khoảng 3 năm), tiểu học (3-4 năm), trung học cơ sở và trung học phổ thông. Trong giai đoạn này, việc học tập chủ yếu được tiến hành bằng tiếng Pháp và chỉ có một số ít người được đi học. Sau Cách mạng, hệ thống giáo dục đã trải qua nhiều lần cải cách, với mục tiêu phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Cũng trong giai đoạn này, năm 1950, Đề án Cải cách giáo dục được Hội đồng Chính phủ thông qua, hình thành được những quan điểm, phương châm giáo dục đúng đắn, tiến bộ.

Sau đó, vào năm 1956, một cuộc cải cách lần thứ hai được tiến hành. Mục tiêu là đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những công dân phát triển toàn diện, thống nhất hai hệ giáo dục giữa 2 miền Nam - Bắc thành một hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 10 năm gồm ba cấp với giáo dục đào tạo chuyên nghiệp.

Sau khi đất nước thống nhất, Bộ Chính trị khóa 14 đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục trong điều kiện đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cải cách giáo dục lần này với nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội; thống nhất giáo dục trong cả nước, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành giáo dục.

Trong giai đoạn đổi mới, nhất là từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước.

Gần đây, Nghị quyết 71-NQ/TW tiếp tục đánh dấu một tầm vóc mới. Nếu như Nghị quyết 29 đặt nền móng cho đổi mới, thì Nghị quyết 71 được ban hành trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng, kinh tế tri thức và chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ. Văn kiện này không chỉ kế thừa, mà còn bổ sung nhiều yêu cầu đột phá: xây dựng đội ngũ nhà giáo chất lượng cao, đổi mới căn bản cơ chế thi cử, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, mở rộng hợp tác quốc tế. Có thể nói, Nghị quyết 71 chính là bước chuyển từ đổi mới căn bản sang đột phá phát triển, nhằm đưa nền giáo dục nước ta tiến gần hơn tới trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.

Xin Phó Giáo sư chỉ ra điểm đột phá lớn và ý nghĩa của sự đồng bộ của Nghị quyết 71 này đối với tiến trình phát triển giáo dục nước ta?

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Nghị quyết 71 thực sự là một bước đột phá trong tiến trình phát triển giáo dục của nước ta. Điểm nổi bật nhất của Nghị quyết này là đã tiếp cận toàn diện, đề cập tới đầy đủ ba “trụ cột” căn bản của hệ thống giáo dục:

Thứ nhất là nội dung - chương trình, Nghị quyết nhấn mạnh định hướng đào tạo con người toàn diện, vừa có tri thức, kỹ năng, vừa được phát triển phẩm chất, năng lực để thích ứng với yêu cầu của thời đại.

Thứ hai là đội ngũ nhà giáo, Nghị quyết đề ra các giải pháp mang tính chiến lược, từ nâng cao chất lượng đào tạo - bồi dưỡng, cho tới cải thiện chế độ đãi ngộ, bảo đảm điều kiẹn làm việc để thầy cô có thể toàn tâm, toàn ý với nghề.

Thứ ba là cơ sở vật chất - thiết bị dạy học. Nhà nước xác định sẽ tập trung đầu tư đồng bộ, từng bước hiện đại hoá trường lớp, thiết bị, ứng dụng công nghệ, nhằm tạo ra môi trường học tập thuận lợi, công bằng và tiên tiến cho học sinh, sinh viên.

Có thể nói, với sự đồng bộ giữa ba yếu tố then chốt này, Nghị quyết 71 có thể tạo nên cú hích mạnh mẽ, mở ra giai đoạn phát triển mới cho giáo dục Việt Nam, giúp ngành vừa giải quyết được những tồn tại kéo dài, vừa từng bước tiệm cận với chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới.

Theo Phó Giáo sư, để Nghị quyết 71 thực sự đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả, đâu là yếu tố quyết định để triển khai thành công?

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Muốn thực hiện Nghị quyết thành công, điều quan trọng nhất là phải có mục tiêu rõ ràng, có thời hạn cụ thể. Khi có tiêu chí, có đề án thì việc triển khai sẽ khả thi hơn nhiều. Có thể nói, các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết 71 đều rất lớn và mang tính đột phá. Một số mục tiêu có thể kể đến như duy trì tối thiểu 20% chi ngân sách nhà nước cho giáo dục. Phấn đấu tới 2030 cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho tất cả học sinh. Sắp xếp lại mạng lưới giáo dục, giải thể hoặc sáp nhập các trường đại học không đạt chuẩn…

Đối với đội ngũ nhà giáo, Nghị quyết đưa ra những chính sách cụ thể, mang tính động viên lớn như nâng phụ cấp ưu đãi nghề cho giáo viên mầm non, phổ thông tối thiểu 70%; nhân viên trường học được hưởng tối thiểu 30%; giáo viên ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo được hưởng 100%.

Nhiều việc ban đầu tưởng chừng như rất khó, nhưng nếu có kế hoạch cụ thể, thì hoàn toàn có thể triển khai thành công. Ví dụ như việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3-5 tuổi; học sinh mầm non và phổ thông được miễn và hỗ trợ học phí; xây dựng 248 trường nội trú bán trú tại các xã vùng biên giới; nhiều đối tượng được hỗ trợ bữa ăn trưa; các trường phổ thông tổ chức dạy 2 buổi/ngày;… Tất cả cho thấy chúng ta đã và đang thực hiện hoá những mục tiêu lớn bằng những bước đi cụ thể. Đặc biệt, sau khi sáp nhập từ hơn 10.035 xã xuống còn 3.321 đơn vị hành chính cấp xã, hệ thống trường, lớp cũng được quy hoạch lại theo hướng tập trung, hợp lý hơn. Đây là một bước tiến lớn trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực giáo dục.

Về tổ chức hệ thống trường học, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của Đức. Ở Đức, mô hình phổ biến là trường phổ thông liên cấp 1-2-3. Tuy nhiên, do học sinh tiểu học còn nhỏ, việc đi xa rất khó nên thường các trường sẽ bố trí xe đưa đón học sinh để đảm bảo an toàn. Đây là một kinh nghiệm đáng suy ngẫm khi chúng ta quy hoạch lại mạng lưới trường lớp, để vừa đảm bảo tính tập trung, vừa không gây khó khăn cho học sinh nhỏ tuổi.

Những mục tiêu trong Nghị quyết mang tầm chiến lược dài hạn, đúng nghĩa “đột phá”. Tuy nhiên, con đường để đạt tới các mốc 2030, 2045 phải được xây dựng từ nguyên lí giáo dục, kiên trì từng bước. Tất cả những yếu tố này, nếu được tổ chức đồng bộ, có tiêu chí cụ thể, có giám sát chặt chẽ, tôi tin rằng việc thực hiện Nghị quyết sẽ thành công.

Thưa Phó Giáo sư, với tầm vóc và định hướng đột phá mà Nghị quyết 71 đề ra, ông kỳ vọng nền giáo dục Việt Nam sẽ đạt được những chuyển biến lớn nào trong chặng đường hướng tới năm 2030, tầm nhìn 2045?

Phó Giáo sư Trần Xuân Nhĩ: Có thể nói, Nghị quyết 71 ra đời với tầm vóc chiến lược rất lớn, hướng đến việc đưa giáo dục trở thành động lực then chốt của sự phát triển đất nước. Tôi tin rằng, trong chặng đường từ nay đến năm 2030, chúng ta sẽ chứng kiến những chuyển biến căn bản như: chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao, hệ thống giáo dục đại học được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn và hiệu quả , đồng thời đội ngũ nhà giáo được tạo điều kiện tốt hơn cả về năng lực hành nghề lẫn chế độ đãi ngộ.

Xa hơn, với tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết đặt nền móng để xây dựng một nền giáo dục hiện đại, công bằng và hôi nhập, đủ sức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Thông điệp lớn nhất mà Ngành cần quán triệt là phải đổi mới thực chất, kiên trì, có trọng tâm, trọng điểm, biến tinh thần của Nghị quyết thành hành động cụ thể trong từng chính sách, triển khai tới từng địa phương, từng nhà trường. Chỉ khi đó, giáo dục mới thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, là động lực mạnh mẽ nhất để Việt Nam phát triển.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Phó Giáo sư!

Hà Giang

Bạn đang đọc bài viết Nghị quyết 71 và khát vọng đột phá phát triển giáo dục Việt Nam tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn

 

Hội thảo quốc tế

Hội thảo quốc gia

 

Phòng, chống COVID-19