Thách thức phát triển giáo dục dân tộc thiểu số trong kỷ nguyên mới
Trong giai đoạn vừa qua, công tác giáo dục dân tộc, chính sách dân tộc luôn được Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục đặc biệt quan tâm, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và đã đạt được thành số kết quả quan trọng. Chất lượng giáo dục đào tạo có sự phát triển rõ rệt, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền trong cả nước.
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh đã phát biểu chia sẻ tại Hội thảo quốc gia về Đổi mới và nâng cao chất lượng GDĐT vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi: “Trong suốt quá trình cách mạng Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán đường lối chính sách dân tộc dựa trên nguyên tắc các dân tộc bình đẳng đoàn kết tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, có tính chất chiến lược lâu dài”.
CTA: Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh (Ảnh Nguyễn Mạnh TTTTSK)
“Các văn bản quy phạm pháp luật, các Chương trình mục tiêu quốc gia đã, đang khẳng định Đảng sự quan tâm chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tạo nền tảng, tiền đề quan trọng, động lực mạnh mẽ cho công tác dân tộc và các chính sách dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay để tiếp tục thể chế hóa và hoàn thiện các chính sách pháp luật liên quan tới lĩnh vực giáo dục, đào tạo cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” – Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao vùng DTTS vẫn còn một số hạn chế, thể hiện ở một số điểm như: Khó khăn trong công tác xây dựng chính sách cho vùng đồng bào DTTS, MN. Nguồn lực và ngân sách đầu tư cho giáo dục, vùng đồng bào DTTS rất lớn trong khi khả năng cân đối ngân sách của Nhà nước thì có hạn; Tính chất phức tạp đan xen của các chính sách trong thời gian qua cần phải được điều chỉnh và tập trung. Thực tế có rất nhiều chính sách đan xen phức tạp gây khó khăn trong quá trình triển khai thực tế tại địa phương; Xu hướng bị lạc hậu của chính sách so với tốc độ phát triển kinh tế của xã hội ngày càng phổ biến. Một số chính sách đã được ban hành từ lâu, mức chi trả không còn phù hợp với mức sống và sự phát triển nền tảng; Tính ổn định chính sách cũng cần được quan tâm, việc thay đổi các quyết định về phân vùng, như là khu vực một, khu vực hai, khu vực ba và thường xuyên theo giai đoạn 5 năm đã gây tác động lớn đến đối tượng đang tạo ra thụ hưởng chính sách và có ảnh hưởng không tốt đến tâm lý người học và gia đình học sinh DTTS.
Bên cạnh đó, những thách thức từ thực tiễn xã hội, như tỷ lệ hộ nghèo và nhận thức về nhu cầu học tập của một bộ phận đồng bào DTTS còn hạn hẹn, cần được cải thiện và quan tâm hơn trong thời gian tới.
Triển khai quyết liệt 4 nhóm chính sách chuyên biệt
CTA: Vụ trưởng Thái Văn Tài – Vụ Giáo dục Phổ thông – Bộ GDĐT: “Bộ GDĐT đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách dân tộc trong phát triển giáo dục. Đây là nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên hàng đầu”.
Phát biểu báo cáo tại Hội thảo quốc gia về Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Vụ trưởng Thái Văn Tài – Vụ Giáo dục Phổ thông cho biết: “Trong giai đoạn vừa qua, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Bộ GDĐT đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, nhằm đáp ứng cụ thể hóa chính sách dân tộc trong phát triển giáo dục. Bộ GDĐT coi đây là nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên hàng đầu. Trong đó, Bộ GDĐT đã rà soát bổ sung, sửa đổi tham mưu ban hành các chính sách để phù hợp chủ trương của Đảng và phù hợp với các chính sách của Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS. Với Bốn nhóm chính sách quan trọng”.
Nhóm thứ nhất, chính sách hỗ trợ chi phí học tập và sinh hoạt, miễn giảm học phí
Đây là nhóm chính sách có tác động trực tiếp lớn đến người học, giúp giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình, khích lệ động viên tinh thần học sinh. Các chính sách này đã được thể chế hóa tại các văn bản quy phạm pháp luật và đã phát huy hiệu quả quan trọng trong thực tế triển khai. Cụ thể, Nghị định 66/2025/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ kinh phí học tập và sinh hoạt cho trẻ em, nhà trẻ, học sinh, sinh viên, học viên cùng tất ở miền núi. Chính sách mang lại lợi ích thiết thực cho hơn 1 triệu học sinh hàng năm, đảm bảo các em được đi học không bị gián đoạn vì lý do kinh tế của gia đình. Nghị định số 57/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chính sách ưu tiên tuyển sinh, hỗ trợ học tập đối với trẻ em mẫu giáo, học sinh, sinh viên vùng DTTS rất ít người nhằm bảo tồn và phát triển các dân tộc có dân số đặc biệt nhỏ.
Ngoài ra, hệ thống các chính sách, các nghị định, quyết định khác của Thủ tướng Chính phủ cũng hỗ trợ chi phí học tập, miễn giảm học phí cho học sinh, sinh viên từ mầm non đến đại học, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi cho học sinh có cơ hội bình đẳng tiếp cận giáo dục.
Thứ hai, nhóm chính sách chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với giáo viên
Đội ngũ nhà giáo luôn là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Việc thu hút và dừng chân giáo viên là một bài toán khó khăn. Một loạt các chính sách ưu đãi đã được ban hành. Cụ thể, Nghị định số 61/2006/NĐ - CP và Nghị định số 76/2019/NĐ - CP của Chính phủ quy định chế độ ưu đãi, phụ cấp thu hút, phụ cấp công tác lâu năm, trợ cấp 1 lần, lần đầu cho giáo viên, nhà giáo công tác vùng chuyên biệt, vùng đặc biệt khó khăn. Quyết định số 244/2005/ TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định phụ cấp ưu đãi trong về các nhà giáo công tác tại các vùng DTTS và miền núi, các mức khác nhau tùy thuộc vào khu vực tập học. Các chính sách được Đảng, Nhà nước ban hành nhằm giải quyết vấn đề khó khăn trong việc giữ chân giáo viên vùng khó và bước đầu phát huy được hiệu quả. Tuy nhiên, các chuyên gia nhà hoạch định cũng đặt yêu cầu cần phải tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
Hiện nay, Bộ GDĐT cũng đã và đang nghiên cứu xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Nhà giáo theo phân công của Chính phủ nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế và khắc phục các khó khăn, vướng mắc và được các địa phương phản ánh trong thời gian vừa qua. Đối với nhà giáo đang công tác tại các vùng khó khăn, đặc biệt chính sách cho nhà giáo công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và giảng dạy tiếng DTTS.
Thứ ba, nhóm chính sách phát triển hệ thống trường chuyên biệt
Năm 1958, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trường phổ thông dân tộc nội trú vùng cao Việt Bắc đầu tiên được thành lập. Hệ thống trường chuyên biệt dành cho học sinh DTTS đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm và phát triển qua từng thời kỳ. Tính đến nay cả nước có 319 trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) với hơn 1213 trường phố thông dân tộc bán trú (PTDTBT). Sự phát triển này không chỉ phát huy, huy động được học sinh đến trường mà còn tạo ra môi trường học tập tập trung, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần quan trọng củng cố và duy trì kết quả phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí cho cấp tiểu học, trung học cơ sở và nâng cao chất lượng tuyển sinh vào đại học, cao đẳng. Tuy nhiên, trong thời gian tới mô hình này cần được đánh giá và có nhiều tiếp cận rộng hơn để đảm bảo được nhu cầu phát triển của thực tế xã hội trong thời kỳ mới.
Thứ tư, nhóm chính sách phát triển đào tạo nguồn nhân lực bảo tồn ngôn ngữ, văn hóa của DTTS
Các chính sách phát triển về giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò then chốt trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao vùng DTTS và miền núi. Cụ thể, Nghị định 141/2020/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chế độ cử tuyển cùng với chính sách cộng điểm ưu tiên tuyển thẳng vào đại học, cao đẳng đã mở ra cơ hội học tập nâng cao trình độ cho nhiều học sinh DTTS.
Theo Vụ trưởng Vụ GDPT Thái Văn Tài: “Chính sách phát triển bảo tồn tiếng nói dân tộc thiểu số cũng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, quy định. Cụ thể, tại Nghị định số 82/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 96/2025/NĐ-CP quy định việc dạy và học tiếng nói dân tộc thiểu số, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Hiện nay, đã có 8 thứ tiếng dân tộc đã được xây dựng chương trình sách giáo khoa và học sinh được học tập tiếng nói, chữ viết của mình theo nguyện vọng. Theo kế hoạch, từ nay đến năm 2030, theo Đề án 142/2025/NĐ - CP tiếp tục có các thứ tiếng dân tộc được xây dựng và phát triển”.
Có thể thấy rằng các chính sách chuyên biệt phát triển giáo dục DTTS được ban hành đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc và nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng đồng bào DTTS, miền núi.
Thành tựu bước đầu: Kéo gần khoảng cách giáo dục vùng miền
Theo Bộ GDĐT, về công tác chỉ đạo chính sách, Bộ GDĐT đã chủ trì và cùng phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tích cực chỉ đạo đơn vị, địa phương phổ biến triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bào DTTSMN. Bộ GDĐT cũng thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát việc triển khai thực tế chính sách tại các địa phương, kịp thời nắm bắt thông tin và bổ sung các văn bản chỉ đạo phù hợp. Các địa phương cũng đã chủ động cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ của ngành, thậm chí ban hành các chính sách riêng theo các thẩm quyền của địa phương để bổ sung vào chính sách đặc thù theo nhu cầu thực tiễn tại địa phương. Kết quả cơ bản ban đầu phát triển vùng đồng bào DTTSMN thể hiện rõ rệt qua các chỉ số sau đây:
Về giáo dục phổ thông và mầm non, mạng lưới trường lớp được mở rộng đến tận các thôn buôn, vùng sâu, vùng xa, các trường PTDTNT, PTDTBT ngày càng khang trang hiện đại. Các chỉ số về phổ cập giáo dục đã phần nào nói lên sự quan tâm đến mạng lưới và mô hình trường lớp. Tỉ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi người dân tộc thiểu số đến lớp hiện nay đạt 98% so với mặt bằng chung của toàn quốc là 99 %; Tỷ lệ học sinh tiểu học là người DTTS trong độ tuổi ra lớp đạt 97,25%, mặt bằng chung toàn quốc là 98,13%; Tỷ lệ huy động HS tiểu học toàn quốc trong độ tuổi ra lớp là 98.31%. Tỷ lệ huy động HS tiểu học người DTTS trong độ tuổi ra lớp là 97,25%; Tỷ lệ HS THCS vùng đồng bào DTTS, MN tốt nghiệp THCS là 98,24%, toàn quốc tốt nghiệp THCS khoảng 98,40%; Tỷ lệ HS THPT vùng đồng bào DTTS, MN tốt nghiệp THPT là 98,16%, toàn quốc tốt nghiệp THPT là 98,40%. Những chỉ số này cho thấy ngành giáo dục bước đầu đã thực hiện thành công và hiệu quả chủ trương Đảng và Nhà nước và đảm bảo công bằng trong phát triển giáo dục đối với học sinh vùng đồng bào DTTS MN.
Về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao giai đoạn 2019 - 2024, số lượng sinh viên và học sinh DTTS gia tăng với tổng số tốt nghiệp. Cụ thể, năm 2022 có 14.722 sinh viên DTTS tốt nghiệp, chiếm khoảng 6% trong tổng số sinh viên tốt nghiệp toàn quốc. Tuy nhiên, so với tỉ lệ dân số là DTTS số khoảng 14 – 15% so với dân số cả nước thì tỷ lệ này còn thấp, và so với mục tiêu đạt 130 - 150 sinh viên/vạn dân vào năm 2020 vẫn chưa đạt được. Đặc biệt, xu hướng thiếu cơ cấu ngành nghề và một số nhân lực về y tế, kỹ thuật, công nghệ thông tin thiếu nhưng lại thừa một số ngành nghề truyền thống. Đặc biệt, tỷ lệ sinh viên ra trường không đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động ngày càng tăng nên sinh viên tốt nghiệp có xu hướng làm sai về ngành nghề đào tạo hoặc là chưa có việc làm. Điều này phổ biến và găp khó khăn ở vùng đồng bào DTTS.
Giải pháp trong thời kỳ mới
Từ những đánh giá về kết quả và thách thức trên, Vụ trưởng Thái Văn Tài - Vụ Giáo dục Phổ thông - Bộ GDĐT đề xuất 4 giải pháp quan trọng gồm: “Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức người dân vùng đồng bào DTTS, miền núi; Tiếp tục rà soát bổ sung và hoàn thiện các chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn; Xây dựng đưa vào hoạt động trong trường PTDTNT liên cấp tiểu học, trung học cơ sở tại các xã biên giới kịp thời trong năm học 2026 – 2027; Trong thời gian tới cần nghiên cứu xây dựng chính sách ưu tiên, hỗ trợ đặc biệt đối với đội ngũ nhà giáo công tác tại các trường chuyên biệt, trường vùng khó khăn; Để giải quyết tình trạng bất cập sự thay đổi các quyết định phân vùng, Bộ GDĐT đề nghị giữ ổn định các chính sách cho người học ở các cấp học theo quyết định phân vùng như học sinh vào đầu cấp”.
Công tác giáo dục và đào tạo vùng đồng bào DTTSMN trong suốt thời gian qua luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, coi đó là nhiệm vụ vừa mang ý nghĩa chiến lược, vừa có giá trị nhân văn sâu sắc. Với sự nỗ lực không mệt mỏi của toàn ngành Giáo dục, sự đồng hành của các địa phương và sự hỗ trợ từ các chính sách ưu tiên đặc thù, công tác phát triển giáo dục dân tộc đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đây chính là nền tảng vững chắc để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục vùng DTTS&MN, hướng tới mục tiêu phát triển công bằng, toàn diện và bền vững trong giai đoạn tới.
Trịnh Thu