Trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn coi trọng đạo lý “Tôn sư trọng đạo”. Đội ngũ nhà giáo dù còn đứng trên bục giảng hay đã lui về sau luôn là những người gieo mầm tri thức, bồi đắp nhân cách, góp phần xây dựng nền tảng văn hóa, trí tuệ cho quốc gia. Hội Cựu giáo chức Việt Nam – “Những thầy cô màu bạc” được thành lập là sự tiếp nối truyền thống, khẳng định vị thế, vai trò và sứ mệnh của các thế hệ nhà giáo trong sự nghiệp phát triển giáo dục, đặc biệt trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hội Cựu Giáo chức Họp Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Hội CGCVN lần thứ hai (Nguồn Ảnh: Tap chi Giao chuc Viet Nam)
Hội Cựu giáo chức Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công dân Việt Nam gồm những người nguyên là nhà giáo, cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ quan quản lý giáo dục, đơn vị sự nghiệp của ngành giáo dục và đào tạo. Hội Cựu giáo chức Việt Nam được thành lập nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cựu giáo chức, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, năng lực, trí tuệ và phẩm chất tốt đẹp của “lực lượng thầy cô màu bạc” trong mạch 80 năm giáo dục cách mạng kể từ năm 1945; về pháp lý, Hội được Bộ Nội vụ cho phép thành lập năm 2004 (Quyết định số 24/2004/QĐ-BNV, ngày 09/4/2004), phê duyệt Điều lệ cùng năm (Quyết định số 61/2004/QĐ-BNV, ngày 07/9/2004), và tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội (ngày 03/7/2004). Tại dấu mốc khai hội, Đại tướng, Nhà giáo Võ Nguyên Giáp được suy tôn Chủ tịch danh dự; Giáo sư, Viện sĩ, NGND Phạm Minh Hạc là Chủ tịch sáng lập, đặt nền cho sứ mệnh Hội: Chăm lo hội viên, lan tỏa “tôn sư trọng đạo”, đóng góp kinh nghiệm, trí tuệ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, tư vấn chuyên môn, xây dựng xã hội học tập và đồng hành cải cách giáo dục.
Trải qua 21 năm xây dựng và phát triển, đồng hành với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của đất nước, với tôn chỉ mục đích và hoạt động hiệu quả, trước tháng 7 năm 2025 Hội Cựu giáo chức Việt Nam đã phát triển rộng khắp 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trên 88% số thị xã, quận, huyện; trên 75% số xã, phường, thị trấn đã có tổ chức Hội với trên 600.000 hội viên; đến nay, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, Hội cũng đã hợp nhất tổ chức Hội ở 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và hầu hết các xã, phường, đặc khu cả nước. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt là chăm lo tốt đời sống tinh thần và vật chất của hội viên với phương châm: “Giao lưu khi khoẻ mạnh; thăm hỏi khi ốm đau; giúp nhau khi hoạn nạn; nghĩa tình trọn vẹn khi qua đời”, Hội còn chủ động, tích cực tham gia vào phát triển văn hóa – giáo dục ở địa phương trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
Trong thời kỳ mới, Hội Cựu giáo chức Việt Nam tiếp tục được xác lập như một “nguồn lực trí tuệ quốc gia” phục vụ mục tiêu phát triển giáo dục trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Khuyến nghị trọng tâm là huy động kinh nghiệm, uy tín và mạng lưới cựu giáo chức để nâng cao chất lượng dạy học, cố vấn đội ngũ trẻ, lan tỏa văn hóa học đường, đóng góp phản biện chính sách giáo dục. Vai trò ấy không chỉ bồi đắp, nâng cao chất lượng chuyên môn mà còn bồi dưỡng phẩm chất, bản lĩnh và căn tính Việt cho thế hệ học trò, kết nối truyền thống “tôn sư trọng đạo” với yêu cầu hội nhập, đổi mới sáng tạo.
Trong chuyển đổi số, Hội phối hợp cùng ngành Giáo dục các cấp xây dựng mạng lưới cố vấn sư phạm trực tuyến toàn quốc, ghép cặp “cựu giáo chức với giáo viên mới” theo môn học/địa bàn; vận hành nền tảng “Trung tâm cố vấn” (Mentor Hub) theo dõi tiến bộ bằng dữ liệu; tổ chức biên soạn, số hóa và cho phép mở các học liệu do cựu giáo chức biên tập, ưu tiên nội dung hỗ trợ học sinh yếu, học sinh vùng khó, xoá mù chữ triệt để vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Cựu giáo chức tham gia bồi dưỡng năng lực số, ứng dụng trí tệ nhân tạo (AI) trong cá thể hóa; qua đó, truyền kinh nghiệm sư phạm kinh điển bằng công cụ hiện đại và lan toả trong cộng đồng.
Để gìn giữ và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”, Hội cần tham gia, dẫn dắt các chương trình giáo dục đạo đức – văn hóa – lịch sử địa phương theo mô hình liên thế hệ: Kể chuyện nghề, tọa đàm giá trị nghề dạy học, dự án sưu tầm di sản nhà trường, câu lạc bộ đọc–viết, khoa học công dân. Những hoạt động này tạo bản sắc, bồi đắp tinh thần yêu nước, trung thực, nhân ái; đồng thời, xây dựng môi trường an toàn, tôn trọng, khích lệ nỗ lực học tập của học sinh trong không gian số và đời thực.
Về quyền lợi và điều kiện bảo đảm hoạt động tư vấn chuyên môn của Hội, đề nghị Nhà nước và chính quyền địa phương thừa nhận chính thức vai trò “chuyên gia tình nguyện” của cựu giáo chức; hỗ trợ phụ cấp nhiệm vụ, phương tiện kết nối, bảo hiểm rủi ro; mở quyền truy cập kho học liệu, hệ thống quản trị học tập và tập huấn số định kỳ. Hội cần có tiếng nói tư vấn thường trực tại Hội đồng giáo dục địa phương nhất là các xã, phường, đặc khu để phản hồi chính sách sát thực tiễn.
Về quản trị và nguồn lực thực hiện, kiến nghị cơ chế đặt hàng nhiệm vụ công (mentoring, học liệu mở, lớp bồi dưỡng vùng khó) với ngân sách minh bạch, kèm chỉ số kết quả: số giờ cố vấn, số giáo viên được hỗ trợ, số học sinh hưởng lợi, số học liệu mở được sử dụng; đồng thời huy động xã hội hóa và hợp tác công–tư cho chuyển đổi số giáo dục. Tất cả hoạt động của Hội cần vận hành trên nền tảng số an toàn, tuân thủ bảo vệ dữ liệu cá nhân, công khai báo cáo tác động. Như vậy, trí tuệ “màu bạc” sẽ trở thành động lực “màu xanh” cho giáo dục Việt Nam: Kế thừa truyền thống, tạo động lực đổi mới sáng tạo và đồng hành cùng khát vọng phát triển quốc gia.
Về chính sách tài trợ cho nguồn lực thực hiện, Hội Cựu giáo chức có thể được ngân sách nhà nước hỗ trợ khi được giao nhiệm vụ (đặt hàng, khoán sản phẩm) từ trung ương hoặc địa phương; song song là các nguồn hợp pháp khác như hội phí, tài trợ, viện trợ, hợp tác công–tư. Ở cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân và Sở Giáo dục và Đào tạo có thể ký chương trình phối hợp, giao nhiệm vụ kèm dự toán (ví dụ: cố vấn chuyên môn, bồi dưỡng giáo viên, hoạt động học tập cộng đồng). Hội cần xây dựng quy chế tài chính minh bạch, công khai kết quả, đồng thời tận dụng hạ tầng số của ngành (kho học liệu, nền tảng quản trị học tập) như một dạng “tài sản dùng chung” để giảm chi phí và tăng hiệu quả.
Về trách nhiệm tham vấn chính sách, với thành viên là các nhà giáo giàu kinh nghiệm, nhiều người từng quản lý, xây dựng và thực thi chính sách, Hội nên đảm nhiệm vai trò tư vấn–phản biện xã hội thường trực cho ngành. Cụ thể, cử đại diện tham gia Hội đồng giáo dục địa phương; góp ý dự thảo luật, chiến lược, đề án; tổ chức mạng lưới cố vấn cho triển khai Chương trình giáo dục phổ thông, đánh giá ví học tập, phát triển đội ngũ và chuyển đổi số (chuẩn năng lực số, an toàn dữ liệu, học liệu mở, ứng dụng AI). Trách nhiệm đi kèm là kỷ luật nghề nghiệp, tránh xung đột lợi ích, bám sát bằng chứng và đo lường mức độ tiếp thu khuyến nghị để bảo đảm tiếng nói của Hội thực sự nâng chất hệ thống.
Như vậy, có thể khẳng định sự phát triển của nền giáo dục nước ta trong kỷ nguyên mới không thể không có những đóng góp quan trọng và hiệu quả của Hội Cựu giáo chức Việt Nam. Không chỉ là nơi hội tụ của những người đã một thời tận tụy với sự nghiệp “trồng người”, Hội còn đóng vai trò là cầu nối vững chắc giữa quá khứ và hiện tại, truyền lửa đam mê, tiếp thêm động lực cho những nhà giáo trẻ tuổi, đồng thời tham gia tích cực vào việc tham vấn, phản biện, xây dựng các chính sách giáo dục.
Vai trò, sứ mệnh của Hội Cựu giáo chức Việt Nam ngày càng được khẳng định khi ngành giáo dục Việt Nam vươn mình, sánh vai với các cường quốc năm châu. Bởi lẽ, để có một tương lai rạng rỡ, cần trân trọng và phát huy những giá trị từ quá khứ, và Hội Cựu giáo chức Việt Nam là biểu tượng cho những giá trị bền vững đó.
PGS.TS. NGƯT Trần Quang Quý
TÀI LIỆU THAM KHẢO