Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Khát vọng hội nhập và bài toán thực tiễn

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, năng lực ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, trở thành một trong những yêu cầu nền tảng đối với nguồn nhân lực. Ở Việt Nam, nhiều năm qua ngành Giáo dục đã nỗ lực triển khai các chương trình, đề án nhằm nâng cao trình độ tiếng Anh cho học sinh, sinh viên.

Ý tưởng đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận, chuyên gia và các nhà quản lý. Đây không chỉ là câu chuyện về dạy và học ngoại ngữ, mà còn là chiến lược dài hạn để Việt Nam hội nhập sâu hơn với thế giới. Tuy nhiên, để đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai thực sự trong trường học không phải là bài toán đơn giản. Nỗ lực thay đổi không chỉ nằm ở số tiết học hay chương trình giảng dạy, mà còn liên quan đến đội ngũ giáo viên, môi trường sử dụng, cơ chế đánh giá và cả sự đồng thuận của toàn xã hội. Nhiều quốc gia đã theo đuổi mục tiêu này nhưng gặp phải “bẫy trình độ trung bình” - tức là dù đầu tư lớn nhưng năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên vẫn chỉ dừng lại ở mức trung bình, khó có bước đột phá. Trong cuộc trao đổi với Tạp chí Giáo dục, Giáo sư Nguyễn Lộc - Nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã chia sẻ góc nhìn về cơ hội, thách thức và hướng đi phù hợp cho Việt Nam.

Khái niệm “đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học” được quốc tế định nghĩa rất chặt chẽ. Theo Giáo sư, nếu so với chuẩn mực này, Việt Nam đang ở vị trí nào?

Giáo sư Nguyễn Lộc: Trước hết, cần làm rõ “đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học” là một khái niệm mang tính chuẩn mực quốc tế, với những điều kiện rất cụ thể. Để đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, một quốc gia phải đáp ứng ba đặc trưng chính:

Thứ nhất, đội ngũ giáo viên đạt trình độ gần như bản ngữ.

Thứ hai, giảng dạy không chỉ môn tiếng Anh mà cả các môn học khác bằng tiếng Anh

Thứ ba, xây dựng môi trường nhà trường thành nơi tiếng Anh hiện diện trong mọi hoạt động - từ lớp học, sinh hoạt ngoại khoá, cho đến giao tiếp thường nhật.

Nếu so sánh với chuẩn quốc tế này, Việt Nam hiện chưa đáp ứng đủ điều kiện. Tuy nhiên, chúng ta đã có những bước đi sáng tạo khi áp dụng từng phần các đặc trưng nói trên. Thực tế, nhiều trường học đã xây dựng các mô hình học tập sáng tạo, linh hoạt để tạo môi trường cho học sinh sử dụng tiếng Anh. Ví dụ, xây dựng “góc tiếng Anh”; tổ chức hoạt động ngoại khoá bằng tiếng Anh; thí điểm dạy một số môn học bằng ngoại ngữ… Đây chính là nền tảng để tiến từng bước, thay vì nóng vội đặt mục tiêu toàn diện ngay từ đầu.

Đối với thực tiễn Việt Nam, đâu là lợi thế và thách thức lớn khi triển khai dạy tiếng Anh theo định hướng này? Xin Giáo sư chỉ rõ.

Giáo sư Nguyễn Lộc: Có thể thấy quyết tâm của Việt Nam đối với việc này rất rõ. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ đào tạo. Nghiên cứu và xây dựng đề án, kế hoạch từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, xác định đây là một trong những nhiệm vụ trong tâm của năm học. Các địa phương cũng tích cực triển khai việc dạy ngoại ngữ từ lớp 3 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Tại các đô thị lớn, việc triển khai dạy và học tiếng Anh càng tích cực. Thành phố Hồ Chí Minh là một ví dụ. Thay vì bắt đầu từ lớp 3 với 4 tiết/tuần, thành phố này bắt đầu dạy tiếng Anh cho học sinh từ lớp 1 và tăng gấp đôi số tiết. Các trường cũng mời giáo viên bản ngữ, hợp tác với các tổ chức quốc tế để triển khai những chương trình với nhiều kỳ vọng.

Tuy nhiên, kết quả môn thi tiếng Anh trong kỳ thi trung học phổ thông quốc gia 2025 cho thấy, điểm số của học sinh Thành phố Hồ Chí Minh chưa cao hơn đáng kể so với mặt bằng chung cả nước. Điều đó phản ánh một thực tế: dù đã có sự đầu tư, nhưng kết quả chưa thực sự rõ nét. Nguyên nhân nằm ở đội ngũ, môi trường và đặc biệt là cơ chế đánh giá chưa có sự đồng bộ. Đây là những thách thức lớn nhất mà chúng ta phải đối diện.

Nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đều nỗ lực cải thiện năng lực ngoại ngữ nhưng vẫn chưa tạo được bước đột phá. Xin Giáo sư lý giải rõ hơn về khái niệm “Bẫy trình độ tiếng Anh trung bình” mà các nước đang gặp phải.

Giáo sư Nguyễn Lộc: Việc các quốc gia hoặc không có bản ngữ thuộc ngôn ngữ châu Âu hoặc không là thuộc địa cũ của Anh có trình độ tiếng Anh không thể vượt qua mức trung bình dẫn đến cái gọi là “Bẫy trình độ tiếng Anh trung bình”.

Khái niệm này gần giống với “Bẫy thu nhập trung bình” trong kinh tế, nhưng khác ở chỗ thu nhập trung bình vẫn có cơ hội thoát ra như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… đã làm được, nhưng với bẫy trình độ tiếng Anh trung bình thì rất khó. Khái niệm này tôi dùng để chỉ tình trạng mà nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển như Hàn Quốc hay Nhật Bản gặp phải: dù đầu tư mạnh nhưng năng lực tiếng Anh chung của toàn dân vẫn dừng ở mức trung bình, rất khó vươn lên cao hơn.

Với Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy khả năng này cũng hiện hữu và có thể coi là một “định mệnh” khó tránh khỏi. Sự mất cân đối giữa các vùng miền, sự chênh lệch trong năng lực giảng dạy của giáo viên, cùng với các rào cản tâm lý như lo âu ngôn ngữ và thiếu môi trường thực hành đã góp phần tạo nên tình trạng “bẫy trình độ trung bình”. Để khắc phục vấn đề này, việc phát triển chính sách đào tạo dài hạn, tập trung vào năng lực ngôn ngữ thực tiễn thay vì cách tiếp cận học thuật hoá truyền thống là một giải pháp thiết yếu.

Theo nghiên cứu của Giáo sư, việc đầu tư mạnh vào nâng cao trình độ tiếng Anh liệu có thực sự mang lại tác động lớn tới phát triển kinh tế, hay chúng ta nên đặt trọng tâm vào các lợi ích khác?

Giáo sư Nguyễn Lộc: Chúng ta không nên ngộ nhận rằng tiếng Anh sẽ trực tiếp quyết định sự phát triển kinh tế quốc gia. Mối quan hệ này chưa rõ ràng, trình độ tiếng Anh cao không nhất thiết sẽ dẫn đến có kinh tế phát triển cao và ngược lại. Ví dụ, Philippines có trình độ tiếng anh cao nhưng GDP đầu người thấp (khoảng 3.500 USD/người). Trong khi đó, Nhật Bản là nước có trình độ tiếng Anh thấp nhưng GDP đầu người cao (khoảng 34.000 USD/người).

Tiếng Anh có tác động lớn hơn về mặt xã hội, văn hoá và khả năng hội nhập quốc tế. Với cá nhân, năng lực tiếng Anh giúp họ tiếp cận với công việc tốt hơn, thu nhập cao hơn, nhất là khi làm việc trong các tổ chức quốc tế. Vì thế, khi bàn về việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai, chúng ta nên đặt kỳ vọng nhiều hơn vào lợi ích xã hội, văn hoá và hội nhập, thay vì kỳ vọng việc này sẽ trực tiếp thúc đẩy kinh tế quốc gia.

Giáo sư đánh giá thế nào về tính khả thi của việc áp dụng mô hình các quốc gia khác vào Việt Nam? Giáo sư có khuyến nghị gì để việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và không lãng phí nguồn lực?

Giáo sư Nguyễn Lộc: Khi tham khảo mô hình các quốc gia khác, cần so sánh với những nước có điều kiện tương đồng, không nên lấy những quốc gia như Singapore hay Malaysia làm đối chứng. Họ có đặc thù lịch sử và xã hội khác với Việt Nam.

Có thể soi chiếu mô hình Ba vòng tròn đồng tâm của ngôn ngữ Anh để phân biệt sự phổ biến và phân bổ tiếng Anh trên thế giới:

Thứ nhất là vòng trong bên trong (Inner Circle) gồm các quốc gia nơi tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức (Hoa Kỳ, Canada, Úc, New Zealand).

Thứ hai là vòng trong bên ngoài (Outer Circle) gồm các quốc gia là thuộc địa cũ của Anh và tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội (Ấn Độ, Malaysia, Singapore…).Việc sử dụng tiếng Anh ở các nước này như ngôn ngữ thứ hai.

Thứ ba là vòng tròn mở rộng (Expanding Circle) gồm các quốc gia dùng tiếng Anh như ngoại ngữ. Ví dụ về các quốc gia này là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc…

Dựa vào mô hình này, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm từ Hàn Quốc hoặc Trung Quốc. Đây là những quốc gia nhiều điểm tương đồng hơn và cũng đang nỗ lực trong việc nâng cao trình độ tiếng Anh cho học sinh thông qua đẩy mạnh đào tạo giáo viên và ứng dụng công nghệ trong giảng dạy tiếng Anh. Các nước này có sự đầu tư và khuyến khích tích hợp tiếng Anh vào các môn học khác nhằm nâng cao kỹ năng sử dụng tiếng Anh trong thực tiễn của học sinh. Dù thực tế họ cũng chưa vượt qua “bẫy trình độ tiếng Anh trung bình”, nhưng cách tổ chức, đầu tư, đặc biệt là gắn ngoại ngữ với môi trường ứng dụng thực tiễn là điều chúng ta có thể học hỏi.

Ngoài ra, tôi cho rằng cần có các nghiên cứu thêm về các khía cạnh khác có tác động đến trình độ tiếng Anh như: chất lượng các chương trình giáo dục, hệ sinh thái ngôn ngữ địa phương, chủ nghĩa ngôn ngữ dân tộc, truyền thông, công nghệ và tiếp xúc văn hoá… để từ đó khai thác những lợi ích thực tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn đất nước.

Hà Giang

Bạn đang đọc bài viết Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học: Khát vọng hội nhập và bài toán thực tiễn tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn