Xây dựng hạ tầng và dữ liệu số - tạo dựng nền móng cho chuyển đổi số
Nhằm đáp ứng yêu cầu từ thực tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã đẩy mạnh đầu tư và định hướng các hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục, đặc biệt chú trọng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI); ban hành định hướng hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2025-2030, trong đó ưu tiên các lĩnh vực cách mạng công nghiệp 4.0, AI, chip bán dẫn, công nghệ sinh học, vật liệu mới, năng lượng sạch trong nghiên cứu và đào tạo. Đồng thời triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025” với nhiều dự án thành phần được triển khai như: xây dựng hệ thống quản trị trường học dùng chung; phát triển kho học liệu số quốc gia; nâng cấp hạ tầng mạng và trang thiết bị tại các địa phương khó khăn; và các dự án đào tạo, tập huấn kỹ năng số cho đội ngũ giáo viên, cán bộ.
Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) bước đầu được đưa vào một số hoạt động: trong giảng dạy, AI tích hợp vào các phần mềm hỗ trợ giáo viên tạo đề thi, chấm bài; trong quản lý, AI hỗ trợ kiểm tra tính hợp lệ của dữ liệu giúp giảm sai sót. Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ GDĐT, nhiều địa phương đã chủ động áp dụng các mô hình mới như lớp học ảo, dạy học trực tuyến, chia sẻ kho học liệu điện tử và triển khai hệ thống quản lý học tập (LMS) đồng bộ. Điều này không chỉ giúp giáo viên tối ưu hoá phương pháp giảng dạy mà còn tạo điều kiện cho học sinh được học tập mọi lúc, mọi nơi. Hiện nay, 100% các tỉnh/thành đã triển khai phần mềm quản trị trường học đến từng cơ sở giáo dục, với các phân hệ quản lý người học, giáo viên, cơ sở vật chất, tài chính… kết nối thông suốt bởi cơ sở dữ liệu ngành. Nhiều phần mềm, tiện ích mới được đưa vào sử dụng. Nhiều địa phương đã số hoá hồ sơ học tập và thí điểm học bạ điện tử, tiến tới liên thông dữ liệu từ phổ thông tới đại học.
Ngoài ra, việc xây dựng cơ sở dữ liệu văn bằng, chứng chỉ đang được triển khai, hướng tới cấp phát đảm bảo xác thực và thuận tiện tra cứu. Dịch vụ tuyển sinh đầu cấp (lớp 1, lớp 6, lớp 10) cũng được nhiều địa phương áp dụng trực tuyến, giảm thủ tục và tăng tính minh bạch.
Ứng dụng công nghệ trong dạy, học và đánh giá
Năm học 2024-2025 đánh dấu việc đẩy mạnh ứng dụng AI và công nghệ số trong giảng dạy. Giáo viên được khuyến khích tích hợp công cj số vào bài giảng để tăng tương tác. Ở cấp phổ thông học sinh bắt đầu học về an toàn mạng, bảo mật dữ liệu, rèn kỹ năng tìm kiếm, xử lý và đánh giá thông tin trực tuyến. Trong dạy ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, nhiều địa phương đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ: từ lớp học ảo, dạy học qua truyền hình, đến việc một giáo viên có thể giảng dạy đồng thời cho nhiều lớp ở các địa điểm khác nhau. Điều này giúp khắc phục tình trạng thiếu giáo viên ở vùng sâu, vùng xa và mở rộng cơ hội học tập bình đẳng.
Ở lĩnh vực đánh giá, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2025 không chỉ đổi mới nội dung theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 mà còn ghi nhận dấu mốc quan trọng: lần đầu tiên Việt Nam tổ chức khảo sát PISA trên máy tính, thể hiện rõ quyết tâm hội nhập với chuẩn quốc tế. Bộ GDĐT cũng đang chuẩn bị cho lộ trình thi tốt nghiệp trung học phổ thông trên máy tính ở những nơi có điều kiện -một bước tiến giúp giảm áp lực tổ chức, tăng tính linh hoạt và độ chính xác.
Ảnh minh hoạ
Phát biểu tại Hội nghị triển khai hai phong trào thi đua trọng điểm: “Cả nước thi đua đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” và “Bình dân học vụ số” trong toàn ngành Giáo dục giai đoạn 2025–2030, Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin Tô Hồng Nam nhấn mạnh, hệ thống dữ liệu ngành, nền tảng học liệu số, các khóa học trực tuyến mở… đã giúp phổ cập tri thức nhanh, rộng khắp. Chỉ riêng giáo dục phổ thông đã có hơn 10.000 bài giảng e-learning, 200 đầu sách giáo khoa điện tử và hàng chục nghìn câu hỏi trắc nghiệm sẵn sàng phục vụ người học. Mô hình “Bình dân học vụ số” đang trở thành biểu tượng mới của giáo dục học tập suốt đời trong thời đại số.
Ngành Giáo dục đặt mục tiêu đến năm 2026: 100% giáo viên, học sinh, người lao động ngành đạt chuẩn năng lực số. Dữ liệu giáo dục sẽ kết nối đồng bộ với các nền tảng số quốc gia, phục vụ thiết thực cho từng người học. Phong trào thi đua đang lan tỏa mạnh mẽ, cổ vũ toàn ngành quyết tâm chuyển đổi số vì một nền giáo dục hiện đại, hội nhập và nhân văn.
Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu trên, ngành giáo dục vẫn cần đối diện với một số khó khăn. Chênh lêch điều kiện triển khai giữa các vùng miền vẫn là rào cản lớn. Ở khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhiều phụ huynh học sinh chưa có thiết bị thông minh hoặc kỹ năng sử dụng dịch vụ trực tuyến, dẫn đến số hồ sơ đăng ký trực tuyến còn thấp. Bên cạnh đó, kho học liệu số tuy đã hình thành, nhưng nội dung còn ít so với nhu cầu dạy và học. Nguồn học liệu số chất lượng cao chủ yếu dựa vào tài nguyên do Bộ GDĐT cung cấp hoặc các nguồn mở, nguồn thương mại sẵn có; nhiều địa phương chưa có kinh phí để tự xây dựng kho học liệu riêng. Ngân hàng câu hỏi trực tuyến và hệ thống học trực tuyến (LMS) cũng chưa triển khai rộng rãi ở vùng sâu, vùng xa do thiếu thiết bị và kỹ năng sử dụng. Việc thực hiện học bạ số chưa thống nhất toàn quốc; đồng thời, chưa có quy định pháp lý rõ ràng về giá trị pháp lý của học bạ số, chữ ký số cho học bạ gây tâm lý lo ngại trong việc thay thế hoàn toàn học bạ giấy.
Để thực hiện mục tiêu chuyển từ “thí điểm” sang “phổ cập” trong giai đoạn tới, ngành iáo dục cần đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ như đầu tư về hạ tầng, phát triển nhân lực số và hoàn thiện hành lang pháp lý, hướng dẫn khai thác công nghệ an toàn và hiệu quả. Khi những điều kiện này được đảm bảo, chuyển đổi số sẽ thực sự trở thành động lực nâng cao chất lượng giáo dục, đóng góp vào mục tiêu xây dựng xã hội học tập hiện đại và nhân văn.
Hà Giang