Ảnh minh hoạ
Thành tựu, hạn chế và yêu cầu bứt phá của giáo dục trong giai đoạn mới
Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách đã được triển khai, đưa Việt Nam thuộc nhóm 21 quốc gia sớm đạt mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030 về giáo dục chất lượng.
Tuy nhiên, Nghị quyết 71-NQ/TW cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế còn tồn tại: cơ hội tiếp cận giáo dục còn thấp so với nhiều nước phát triển; sự chênh lệch vùng miền, điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo chưa đồng đều; giáo dục đại học và nghề nghiệp phát triển manh mún, lạc hậu; bệnh thành tích, tiêu cực, sự coi trọng bằng cấp hơn năng lực thực chất vẫn phổ biến.
Nguyên nhân của những hạn chế này là việc chưa thực hiện đầy đủ quan điểm giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, chưa đổi mới mạnh mẽ tư duy quản lý, nguồn lực đầu tư còn hạn chế, chính sách chưa đồng bộ. Trong khi đó, bối cảnh thế giới biến đổi nhanh chóng bởi công nghệ số, trí tuệ nhân tạo đặt ra yêu cầu Việt Nam phải có một chiến lược mới, đột phá mới cho giáo dục.
Quan điểm chỉ đạo: Giáo dục là quốc sách hàng đầu
Nghị quyết 71-NQ/TW khẳng định 6 quan điểm xuyên suốt:
Một là, giáo dục là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược, kiến tạo phát triển, đảm bảo nguồn lực và công bằng.
Hai là, phát huy truyền thống hiếu học, xây dựng xã hội học tập suốt đời, khuyến khích học tập suốt đời.
Ba là, phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội, lấy người học làm trung tâm, thầy cô là động lực quyết định. Coi trọng danh dự người thầy, tôn vinh người thầy trong xã hội.
Bốn là, đảm bảo “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, “nhà trường gắn liền với xã hội”, trong đó giáo dục mầm non và phổ thông là nền tảng, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt, giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao.
Năm là, đổi mới tư duy và nhận thức thể chế, tạo đột phá nguồn lực, động lực, không gian phát triển; đảm bảo Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Sáu là, xây dựng hệ thống giáo dục mở, công bằng, liên thông, trong đó giáo dục công lập là trụ cột, giáo dục ngoài công lập là thành phần quan trọng.
Đến năm 2030, Nghị quyết đặt mục tiêu mở rộng tiếp cận và nâng cao chất lượng giáo dục, phấn đấu ít nhất 80% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi và giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở; ít nhất 85% người trong độ tuổi hoàn thành cấp trung học phổ thông và tương đương. Chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đặt trên 0,8, trong đó chỉ số bất bình đẳng giáo dục giảm xuống dưới 10%.
Ở bậc cao hơn, 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á; ít nhất 8 trường đại học Việt Nam thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới ở một số lĩnh vực. Tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt 35%, trong đó 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng. Mạng lưới các trường đại học cần đóng vai trò nòng cốt trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của các vùng và địa phương, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu các ngành, lĩnh vực trọng điểm; tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.
Đến năm 2035, hệ thống giáo dục hướng tới hoàn thành phổ cập trung học phổ thông, đưa chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số HDI đạt trên 0,85; chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số GII đạt trên mức bình quân của các nước có thu nhập trung bình cao, đồng thời có ít nhất 2 trường đại học lọt top 100 thế giới. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam sẽ có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng, chất lượng, đứng trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu toàn cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài khoa học - công nghệ trở thành động lực cạnh tranh cốt lõi, với ít nhất 5 trường đại học lọt top 100 thế giới trong một số lĩnh vực.
Nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm
Để thực hiện các mục tiêu trên, Nghị quyết đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp:
Một là, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ để đột phá phát triển giáo dục và đào tạo: Giáo dục là trọng tâm trong quản trị quốc gia, tăng vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, nhất là vai trò của người đứng đầu cấp uỷ trong các cơ sở giáo dục.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ thể chế, tạo cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển giáo dục và đào tạo: Hoàn thiện các quy định pháp luật để kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, chính sách; nâng phụ cấp ưu đãi nghề với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông (tối thiểu 70% cho giáo viên, tối thiểu 30% cho nhân viên, 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn); mở rộng quy mô tự chủ đại học; phân bổ ngân sách nhà nước cho cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; tăng chi ngân sách cho giáo dục tối thiểu 20%, lập Quỹ học bổng quốc gia.
Ba là, tăng cường giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ, hình thành hệ giá trị con người Việt Nam thời đại mới: Xây dựng và cụ thể hoá giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới, tích hợp xuyên suốt trong chương trình giáo dục ở tất cả các cấp. Xây dựng văn hoá học đường, ngăn chặn bạo lực học đường, ma tuý học đường, nâng cao dinh dưỡng và thể chất học sinh.
Bốn là, chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo: Xây dựng dữ liệu giáo dục quốc gia; trường học thông minh; sách giáo khoa số; nâng cao năng lực số và AI cho giáo viên, học sinh.
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất trường lớp đạt chuẩn, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông: Hoàn thành phổ cập mầm non 3-5 tuổi; chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo; kiên cố hoá trường lớp; phát triển trường nội trú, trường chuyên; mở rộng dạy ngoại ngữ và đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai.
Sáu là, cải cách, hiện đại hoá giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao: Tinh gọn hệ thống, bổ sung cấp trung học nghề; đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp; đào tạo nghề chất lượng cao cho dân tộc thiểu số; khuyến khích doanh nghiệp mở trường nghề.
Bảy là, hiện đại hoá, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo: Sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học; phát triển 3-5 cơ sở giáo dục đại học tinh hoa theo mô hình đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài quốc gia, tăng cường đầu tư nghiên cứu, thúc đẩy hợp tác Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp; đổi mới tuyển sinh; nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học.
Tám là, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế: Tham gia sâu hơn vào các mạng lưới giáo dục toàn cầu; mở rộng học bổng; hợp tác đào tạo xuyên biên giới; khuyến khích đại học Việt Nam mở cơ sở ở nước ngoài và phát triển giảng dạy tiếng Việt, lan toả các giá trị văn hoá, truyền thống Việt Nam tại nước ngoài.
Ý nghĩa và kỳ vọng
Nghị quyết 71 là văn bản mang tính định hướng để toàn xã hội chung tay vì sự nghiệp giáo dục. Khi giáo dục được đặt ở vị trí “đột phá phát triển”, mọi chính sách về nguồn lực, thể chế, con người đều sẽ xoay quanh việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng thế hệ công dân mới. Đây là bước đi chiến lược để Việt Nam thực hiện mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Hà Giang