Giáo dục vùng dân tộc thiểu số: Cần các chính sách nhất quán và bền vững

Giáo dục vùng dân tộc thiểu số luôn là một phần quan trọng trong chính sách giáo dục quốc gia, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền học tập công bằng, chất lượng cho mọi đối tượng. Trong những năm gần đây, cùng với nỗ lực tăng cường tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1, mở rộng hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú, công tác giáo dục dân tộc đã ghi nhận những chuyển biến tích cực.

Tăng cường tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1

Tại một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, nhiều trẻ em dân tộc thiểu số khi đến trường vẫn chưa thành thạo tiếng Việt. Việc tiếp cận chương trình học bằng một ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ khiến trẻ gặp khó khăn ngay từ những ngày đầu đến lớp. Điều này dẫn đến nhiều hệ luỵ: chậm phát triển kỹ năng đọc hiểu, thiếu tự tin trong giao tiếp, kết quả học tập từ đó có thể thấp hơn so với mặt bằng chung…

Nhận thức rõ vai trò quyết định của tiếng Việt trong quá trình học tập và phát triển của học sinh dân tộc thiểu số, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đồng bộ nhiều chính sách nhằm tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số. Trọng tâm là thực hiện Thông tư 23/2023/TT-BGDĐT về dạy tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1. Trên cơ sở đó, Bộ đã tổ chức biên soạn tài liệu “Chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1”, tập huấn cán bộ quản lý và giáo viên mầm non về phương pháp tăng cường tiếng Việt, đồng thời hướng dẫn đánh giá kỹ năng ngôn ngữ của trẻ.

Các địa phương, đặc biệt là các tỉnh có tỷ lệ cao trẻ em dân tộc thiểu số, đã ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể đến từng cơ sở giáo dục mầm non. Nhiều mô hình lớp học linh hoạt, môi trường tiếng Việt tăng cường đã được triển khai ở cấp cơ sở. Về cơ bản, trẻ em người dân tộc thiểu số đã được học tiếng Việt (các kỹ năng nghe, nói) trước khi vào lớp 1.

Trường dân tộc nội trú - mô hình then chốt cho phát triển bền vững

Cùng với việc dạy tiếng Việt, hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú được coi là giải pháp căn cơ để đảm bảo quyền học tập cho học sinh dân tộc thiểu số. Mô hình trường nội trú không chỉ giải quyết vấn đề đi lại, ăn ở cho học sinh, mà còn tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động giáo dục toàn diện, tăng cường rèn luyện kỹ năng sống, văn hoá ứng xử, giao tiếp tiếng Việt trong môi trường sinh hoạt tập thể. Đây là môi trường chuyển tiếp quan trọng giúp học sinh dân tộc thiểu số không bị đứt gãy trong quá trình học tập.

Hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú được coi là giải pháp để đảm bảo quyền học tập cho học sinh dân tộc thiểu số

Hiện, toàn quốc có 319 trường phổ thông dân tộc nội trú, với 115.333 học sinh dân tộc nội trú. Số trường phổ thông dân tộc nội trú đạt chuẩn quốc gia: 187/319 trường, chiếm 58,6%. Về trường phổ thông dân tộc bán trú, toàn quốc có 1.213 trường phổ thông dân tộc bán trú, với quy mô 245.800 học sinh bán trú. Số trường phổ thông dân tộc bán trú đạt chuẩn quốc gia 483 trường (chiếm 39,8%). Bên cạnh đó, còn có 2.145 trường phổ thông có học sinh bán trú với quy mô khoảng 213.199 học sinh bán trú. Số trường đạt chuẩn quốc gia 1.016 trường (chiếm 47,3%).

Bộ GDĐT đã ban hành công văn hướng dẫn các Sở GDĐT rà soát, quy hoạch lại mạng lưới các trường nội trú, bán trú, đảm bảo không sáp nhập cơ học, tránh gây xáo trộn trong học tập của học sinh. Các chương trình hỗ trợ cũng được tích cực triển khai nhằm đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và học liệu cho các trường vùng sâu, vùng xa.

Một số địa phương đã có bước triển khai mạnh mẽ trong cải thiện điều kiện học tập cho học sinh. Tỉnh Quảng Ninh triển khai Đề án cải tạo, sửa chữa, nâng cấp, hoàn thiện cơ sở vật chất ngành Giáo dục tỉnh giai đoạn 2022-2025 với 22 trường, trong đó có 12 trường hoàn thành và đi vào hoạt động. Tỉnh Phú Thọ đầu tư hơn 140 tỷ đồng xây mới trường phổ thông dân tộc nội trú tại Lạc Sơn; Quảng Trị sửa chữa, nâng cấp 8/9 trường nội trú; Nghệ An thực hiện thí điểm mô hình trường phổ thông dân tộc bán trú vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn tỉnh…

 Cần chiến lược và tầm nhìn dài hạn

Hệ thống trường nội trú hiện nay vẫn đối mặt với nhiều áp lực về cơ sở vật chất, tỷ lệ giáo viên trên lớp. Theo Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Trần Thanh Đạm, vẫn có hiện tượng thiếu phòng học cục bộ tại các khu vực vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chia sẻ về những khó khăn thực tế mà địa phương phải đối mặt, Giám đốc Sở GDĐT tỉnh Đắk Lắk Lê Thị Thanh Xuân bày tỏ mong muốn: “Địa phương rất mong Bộ GDĐT tiếp tục chỉ đạo hướng dẫn rà soát, đánh giá việc đảm bảo nguồn lực, tổ chức tập huấn, nhất là đội ngũ công chức cấp xã trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về GDĐT khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp”.

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính Trần Thanh Đạm (Nguồn: Bộ GDĐT)

Đặc biệt, sự gắn kết giữa các trường nội trú và các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng ở địa phương cũng là yếu tố cần được đẩy mạnh. Rất nhiều học sinh tốt nghiệp từ hệ thống trường dân tộc nội trú trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho các trường sư phạm vùng, đóng góp trở lại cho chính quê hương của mình.

Giáo dục vùng dân tộc thiểu số không chỉ là trách nhiệm xã hội mà còn là chiến lược lâu dài để bảo đảm sự phát triển đồng đều, công bằng và bền vững của quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập, yêu cầu đặt ra không chỉ dừng lại ở việc tăng cường tiếng Việt, mà cần xây dựng một nền giáo dục đa ngữ, tiếng mẹ đẻ được bảo tồn song hành với tiếng Việt như một công cụ phát triển và hội nhập. Để đạt được điều đó, chính sách ngôn ngữ trong giáo dục dân tộc cần được xây dựng nhất quán và dài hạn, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp quản lý, nhà trường, gia đình và cộng đồng. Một trong những phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2025-2026 Bộ GDĐT đề ra là ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục phổ thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; triển khai nhanh chóng, hiệu quả chủ trương đầu tư xây dựng các trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở tại 248 xã biên giới đất liền.

Có thể thấy, chính sách giáo dục cho vùng dân tộc thiểu số cần tầm nhìn dài hạn, sự phối hợp đồng bộ và đầu tư đúng mức để không chỉ thu hẹp khoảng cách về cơ hội học tập cho học sinh mà còn phát huy được tiềm năng văn hoá, trí tuệ và bản sắc của cộng đồng dân tộc thiểu số trong công cuộc phát triển đất nước.

Hà Giang

 

 

Bạn đang đọc bài viết Giáo dục vùng dân tộc thiểu số: Cần các chính sách nhất quán và bền vững tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn