Thế giới đang chứng kiến những tác động sâu rộng, toàn diện, sự chuyển đổi căn bản mọi mặt của đời sống, kinh tế - xã hội trước tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhờ sự đột phá và hội tụ của nhiều công nghệ tiên tiến. Trong đó, công nghệ số và trí tuệ nhân tạo chính là những công nghệ lõi, là động lực chính của sự phát triển, là thước đo cho sức mạnh và vị thế cạnh tranh của mỗi quốc gia. Nhận thức sâu sắc về xu thế tất yếu này, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có những chủ trương, định hướng chiến lược quan trọng.
Nổi bật là Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết nhấn mạnh “Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chăn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá trong kỉ nguyên mới”. Nghị quyết cũng chỉ ra rằng, cùng với thể chế, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược, nhân lực được xác định là một trong những nội dung trọng tâm, cốt lõi; cần bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài.
Theo thống kê, cả nước hiện có khoảng 150 trường đại học, cao đẳng có ngành đào tạo liên quan tới công nghệ thông tin và truyền thông; khoảng 74 ngàn doanh nghiệp về công nghệ. Đây là nguồn lực chính, đóng góp quan trọng nhất trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ thông tin và truyền thông nói chung, công nghệ số và AI nói riêng trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, công tác đào tạo nhân lực về công nghệ số và AI tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cả về quy mô và chất lượng. Chương trình đào tạo tại nhiều trường vẫn còn nặng về lý thuyết, thiếu cập nhật các công nghệ mới; chưa phản ánh hết được thực tế phân hóa theo nhu cầu. Số lượng giảng viên có trình độ cao và kinh nghiệm làm việc thực tế trong các dự án về AI, dữ liệu lớn còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở các đơn vị đào tạo lớn. Nhiều sinh viên ra trường vẫn phải đào tạo lại, thiếu tư duy sáng tạo và kỹ năng làm việc toàn cầu. Liên kết ba nhà: nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp còn lỏng lẻo, thiếu thức chất, nặng tính hình thức. Doanh nghiệp vẫn đứng ngoài quá trình đào tạo, chủ yếu đóng vai trò là “người sử dụng cuối cùng” thay vì là “người đồng hành, đặt hàng”.
Trao đổi về vấn đề này, đồng chí Vũ Thanh Mai, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chia sẻ: “Công nghệ số, AI và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực này là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp bách vừa lâu dài, quyết định tương lai và vị thế của dân tộc, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, tầm nhìn chiến lược, giải pháp đồng bộ và sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị và xã hội, với vai trò nòng cốt của ngành giáo dục, các nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp công nghệ”.
(Tọa đàm khoa học: “Đào tạo nhân lực chất lượng cao về công nghệ số và trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”. Ảnh: NVCC)
Trong tọa đàm khoa học mới đây do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Câu lạc bộ Khoa - Trường - Viện Công nghệ Thông tin - Truyền thông Việt Nam (FISU Việt Nam) và Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICTU), Đại học Thái Nguyên, các nhà khoa học cũng có những luận bàn về vấn đề trọng yếu này với nhiều góc độ tiếp cận cấp thiết.
Tiếp cận từ góc độ đổi mới chương trình đào tạo (CTĐT), Giáo sư Chử Đức Trình, Đại học Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh 8 yếu tố quan trọng để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ số và AI, đó là: “CTĐT cần đa dạng, bao phủ các lĩnh vực khoa học công nghệ, STEAM; luôn mở; liên ngành; văn hóa tự học; thực hành, thực tập, thực tế; môn học định hướng dự án; coi trọng kiểm tra, đánh giá; vai trò của cố vấn học tập, người hướng dẫn”.
Từ nghiên cứu về “hệ sinh thái đại học thông minh”, Tiến sĩ Đặng Trọng Hợp, Đại học Công nghiệp Hà Nội cũng bàn luận về 8 giải pháp: “Gắn chuyển đổi số vào chương trình hành động của từng đơn vị; tầm nhìn dài hạn, với chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể; phát triển hạ tầng và trung tâm dữ liệu lớn; bồi dưỡng đội ngũ thường xuyên, chuyên sâu, làm chủ công nghệ; CTĐT tích hợp năng lực số, tư duy số, đạo đức AI; nhanh chóng triển khai ứng dụng AI thiết thực và phù hợp; hợp tác nghiên cứu khoa học để xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo; chính sách bảo mật dữ liệu, khung đạo đức AI minh bạch và nhân văn”.
Trao đổi về mô hình liên kết ba nhà: nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp, Phó Giáo sư Huỳnh Khả Tú, Đại học Quốc gia TPHCM, đánh giá sự cấp thiết: “Cần có cơ chế chính sách linh hoạt và đột phá để thuận lợi cho việc triển khai sâu rộng và bền vững mô hình hợp tác “3 Nhà”; hình thành một Quỹ hỗ trợ phát triển trí tuệ nhân tạo quốc gia; có cơ chế ưu tiên đặt hàng các dự án nghiên cứu, ứng dụng AI xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của địa phương và doanh nghiệp, được thực hiện bởi các nhóm chuyên gia, giảng viên và sinh viên trong hệ thống đại học; cho phép các địa phương và doanh nghiệp tham gia vào quá trình đồng thiết kế CTĐT và nghiên cứu AI thông qua các hợp đồng đặt hàng dài hạn; có cơ chế chia sẻ lợi ích rõ ràng, nhằm bảo đảm tính thực tiễn và tính bền vững của hợp tác”.
Có thể thấy, qua nhiều hoạt động thực tiễn và quá trình đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số, Việt Nam cần có những đánh giá toàn diện hơn về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ số và trí tuệ nhân tạo. Từ đó, các nhà hoạch định chính sách, các cơ sở đào tạo mới có căn cứ khoa học để đề xuất các quan điểm, mục tiêu và giải pháp đột phá nhằm nâng cao quy mô, chất lượng và cơ cấu nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nguyễn Minh