Giáo sư Nguyễn Quý Thanh – Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, để Nghị quyết 57-NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống, không thể chỉ trông chờ vào sự vận động của từng cá nhân hay nhóm nghiên cứu, mà cần có giải pháp căn cơ mang tính hệ thống và dài hạn.
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh – Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phóng viên: Xin Giáo sư đánh giá vai trò của các trường đại học trong việc thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW.
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt ra một loạt yêu cầu mới cho các cơ sở giáo dục đại học - nơi được xác định là trung tâm đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức. Đây là chủ trương lớn, đúng đắn, cần thiết và được giới học thuật cũng như cơ sở giáo dục đại học đồng tình, ủng hộ. Trong Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi cũng định vị cơ sở giáo dục đại học là trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo gắn với đào tạo nhân lực chất lượng cao nhằm thể chế hóa Nghị quyết 57-NQ/TW, đồng thời cũng là sự tiếp nối định hướng đã được đề ra trong nhiều chính sách trước đó như Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hay các chương trình mục tiêu về nghiên cứu khoa học, công nghệ gắn với đào tạo.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc “định vị” thì chưa đủ. Thực tiễn triển khai những năm qua cho thấy, mặc dù đã có nhiều nghị định, kết luận như Kết luận 51-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Kết luận 91-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo… nhưng mức độ chuyển biến trong thực tiễn vẫn còn hạn chế.
Phóng viên: Với vai trò là một nhà quản lý, có nhiều góc nhìn từ thực tiễn, xin Giáo sư cho biết việc triển khai nghiên cứu khoa học tại các trường đại học đang diễn ra như thế nào?
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Một thực tế không thể phủ nhận là số lượng công bố quốc tế của các trường đại học Việt Nam đã tăng lên trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tôi cho rằng nguyên nhân chính của xu hướng này chưa xuất phát từ nội lực hay chính sách hỗ trợ nghiên cứu bài bản, mà chủ yếu do áp lực từ hệ thống xếp hạng đại học. Xếp hạng quốc tế luôn đánh giá cao các chỉ số về công bố khoa học, trích dẫn, bài báo quốc tế… Vì vậy, một số trường có tham vọng hiện diện trên bản đồ quốc tế đã tìm nhiều cách để cải thiện những chỉ số này, dẫn đến tình trạng chạy theo số lượng, không bền vững, làm méo mó đi mục tiêu thực chất của nghiên cứu khoa học. Trong khi đó, bản chất của nghiên cứu là công việc mang tính cá nhân cao, cần sự đam mê, kiên trì và môi trường học thuật tự do, chứ không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hay chỉ tiêu cứng nhắc.
Đối với nghiên cứu khoa học, tôi cho rằng câu hỏi cần đặt ra là: Năm nay, các nhà khoa học phát hiện được điều gì mới? Phát hiện đó có giá trị thế nào, ảnh hưởng ra sao đến học thuật trong nước, quốc tế? Nghiên cứu đó có tạo ra được sự thay đổi về nhận thức, công nghệ hay không? Đó mới là vấn đề quan trọng cần quan tâm.
Phóng viên: Theo Giáo sư, đâu là điểm nghẽn hạn chế hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học hiện nay?
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Theo tôi, có 3 nguyên nhân chính dẫn đến việc này:
Thứ nhất, về vấn đề tài chính: Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và đào tạo đã quy định: Tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ (có tính trọng số theo lĩnh vực), tính trung bình trong 3 năm gần nhất không thấp hơn 5%. Quy định này đã tạo áp lực tích cực buộc các trường phải bố trí ngân sách cho khoa học công nghệ. Tuy nhiên, phần lớn vẫn là điều tiết nội bộ, chưa có nguồn đầu tư mạnh mẽ từ bên ngoài. Trong khi đó, tỷ lệ đầu tư cho khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước hiện đang còn thấp so với kỳ vọng. Nếu muốn thực hiện mục tiêu 2% GDP đầu tư cho nghiên cứu khoa học như trong Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, thì việc tăng đầu tư từ ngân sách là điều bắt buộc.
Thứ hai, về vấn đề nhân lực: Khác với hoạt động đào tạo - vốn là nhiệm vụ tập thể và có cơ chế tổ chức rõ ràng, nghiên cứu khoa học đòi hỏi sự chủ động từ cá nhân hoặc nhóm nghiên cứu. Muốn phát triển nghiên cứu khoa học, phải tạo ra động lực thật sự cho các nhà khoa học, cho nhà trường.
Hiện nay, khi một giảng viên đại học dành thời gian làm nghiên cứu, họ sẽ phải giảm giờ dạy, đồng nghĩa với việc nhà trường phải bố trí người khác dạy thay. Tuy nhiên, khoản kinh phí chi cho phí quản lý lại rất thấp so với khối lượng công việc quản lý, vận hành, giám sát, quyết toán… cùng rất nhiều đầu mục chi cho nhân sự hỗ trợ. Khối lượng công việc này có thể kéo dài 1-2 năm, nhưng cũng có thể dài hơn nếu đề tài kéo dài. Chính vì vậy, hiện nay, một số trường gặp khó khăn khi phải tổ chức nghiên cứu bài bản. Nhà nghiên cứu cũng thiếu động lực bởi đầu tư thời gian công sức mà không thu được thành quả tương xứng.
Thứ ba, về vấn đề tầm nhìn: Cần nhìn nhận nghiên cứu là công việc nếu muốn có kết quả thực chất thì cần thời gian, sự bền bỉ, phải chấp nhận thất bại rồi mới thành công. Nghiên cứu khoa học khó có thể làm theo nhiệm vụ. Nếu tiếp tục cách làm này thì kết quả nghiên cứu khoa học sẽ chỉ dừng lại ở những bài báo để ra đúng hạn, thậm chí tiêu cực hơn là đốt cháy giai đoạn, mất đi những phát hiện mang tính trường diễn, dài hạn, có giá trị nền tảng.
Rất nhiều vấn đề quan trọng như: sức khỏe cộng đồng; nghiên cứu vaccine; nghiên cứu các vấn đề tâm lý xã hội… đều cần thời gian nhiều năm để nghiên cứu. Có những công trình nghiên cứu kéo dài 5-10 năm mới ra kết quả, thậm chí có lúc thất bại. Nhưng đó mới là những nghiên cứu thực chất. Họ là những người đang cặm cụi nghiên cứu bền bỉ, là những nhóm nghiên cứu chấp nhận đi con đường dài, trăn trở với các bài toán lớn mà xã hội đang cần.
Phóng viên: Trong thời gian tới, để thực hiện tốt vai trò nghiên cứu khoa học được đề cập trong Nghị quyết 57, theo Giáo sư, cần thêm những quy định, thay đổi gì trong cơ chế để khuyến khích các trường, các nhà khoa học tham gia nghiên cứu khoa học?
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Thứ nhất, cần xác định rõ vai trò của trường đại học không chỉ là nơi dạy học, mà là trung tâm nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao công nghệ. Muốn vậy, phải có chính sách ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời trao quyền tự chủ thực chất về tổ chức tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học.
Thứ hai, cần phân tách nhiệm vụ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Nhiệm vụ tạo ra công nghệ mới, sáng chế công nghệ không nên đặt chủ yếu vào các trường đại học, bởi điều kiện và chức năng của các trường khó phù hợp để thực hiện việc đó một cách hiệu quả. Thay vào đó, nên để các viện nghiên cứu đảm nhận phần phát triển công nghệ, còn các trường đại học cần tập trung mạnh vào nghiên cứu cơ bản như: toán, lý, hóa, sinh, văn, sử, địa, xã hội học… Đây là nền tảng để đào tạo sinh viên, nuôi dưỡng tư duy học thuật, phát hiện mới, phục vụ dài hạn cho cả hệ thống.
Tôi lấy ví dụ, một nhóm nghiên cứu vật lý lý thuyết có thể đặt tại trường đại học, trong khi nhóm phát triển công nghệ ứng dụng từ vật lý có thể đặt tại viện nghiên cứu. Nhà nước cần cơ chế đặt hàng cụ thể: ví dụ trong 5 năm tới sẽ phát triển mô hình, sản phẩm, công nghệ gì… Như vậy, đầu tư sẽ có mục tiêu rõ ràng, dài hạn.
Đầu tư cho nghiên cứu cơ bản cũng là đầu tư cho năng lực tư duy chiến lược, dài hạn của quốc gia. Dạy học gắn với nghiên cứu cơ bản cũng là cách nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Công nghệ có thể thay đổi rất nhanh, nhưng nền tảng học thuật phải bền vững. Việc phân tách này sẽ giúp hình thành một hệ sinh thái nghiên cứu lành mạnh và hiệu quả hơn.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!
Hà Giang