Tuy nhiên, việc thực hiện tự chủ cũng đặt ra nhiều thách thức và yêu cầu cao về thiết kế thể chế, đặc biệt là trong mô hình đại học có trường đại học thành viên (mô hình 2 cấp). Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội để cùng nhìn lại hành trình tự chủ đại học tại Việt Nam, vai trò và thực quyền của Hội đồng trường cũng như những khuyến nghị về chính sách trong thời gian tới.
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phóng viên: Thưa Giáo sư, với vai trò là một chuyên gia và một nhà quản lý giáo dục, Giáo sư nhận định Luật Giáo dục Đại học hiện hành đang có những tác động như thế nào trong việc tạo hành lang pháp lý cho các trường thực hiện tự chủ, nâng cao chất lượng đào tạo và hội nhập quốc tế?
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Để đánh giá đúng tác động của Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018, chúng ra cần nhìn nhận lại tiến trình hình thành pháp lý của hệ thống giáo dục đại học. Trước đây, Luật Giáo dục năm 2005 chưa nêu rõ vấn đề tự chủ. Luật Giáo dục đại học năm 2012 bắt đầu đặt vấn đề về mô hình đại học và đại học quốc gia nhưng vẫn thiếu các thiết chế hỗ trợ tự chủ. Sau một thời gian thực hiện, vấn đề tự chủ ngày càng được quan tâm và thảo luận nhiều hơn.
Tới năm 2014, Chính phủ mới thực hiện thí điểm cấp quyền tự chủ cho khoảng 33 trường đại học công lập theo Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017. Tuy nhiên, trong thực tế, sự tự chủ này vẫn gặp một số khó khăn nhất định. Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018, cùng với Nghị định 99/2019/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học đã tạo ra một bước tiến mới khi quy định rõ ràng hơn về các quyền tự chủ, bao gồm: tổ chức bộ máy, mở ngành đào tạo, tài chính, tuyển sinh, nhân sự…
Tuy nhiên, thực tế cho thấy quá trình thực hiện quyền tự chủ trong cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam vẫn còn nhiều rào cản cần tháo gỡ do chưa có sự đồng bộ với một số quy định khác, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và tuyển dụng.
Phóng viên: Một trong những thiết chế quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền tự chủ đại học là Hội đồng trường. Theo Giáo sư, tại các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam, hội đồng trường đang thực hiện vai trò của mình như thế nào?
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Đầu tiên, tôi muốn đề cập tới mục đích ban đầu của việc thành lập hội đồng trường, đó là tạo ra một thiết chế có quyền lực thực sự - nghĩa là những người trong hội đồng trường phải được ủy quyền quyết định các vấn đề lớn mà trước đây do cơ quan cấp cao, cơ quan chủ quản quyết định, ví dụ như mở ngành, phân bổ ngân sách, bổ nhiệm, nhân sự…
Vậy câu hỏi đặt ra, hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam có “thực quyền” này hay chưa? Hiện nay, đa số các thành viên hội đồng trường, kể cả đại diện các cơ quan chủ quản chưa thực hiện quyền quyết định mà đang mang tính chất “nhận thông tin”. Để khắc phục tình trạng này, tôi cho rằng cần có cơ chế ủy thác rõ ràng cho các thành viên trong hội đồng trường, đảm bảo hội đồng trường hoạt động như một cơ chế quản trị chứ không chỉ là nơi biểu quyết danh nghĩa.
Phóng viên: Theo quan điểm của Giáo sư, đâu là những điểm nghẽn lớn khiến cho việc thực hiện tự chủ đại học, đặc biệt là vai trò của hội đồng trường chưa đạt được như kỳ vọng?
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Tôi cho rằng có 3 lý cho chính:
Thứ nhất: Hành lang pháp lý còn nhiều bất cập: Luật Giáo dục Đại học cho phép tự chủ, nhưng các quy định khác như Luật Viên chức, Luật Đầu tư công,… lại đang chưa “mở cửa” cho các trường thực hiện quyền này. Trường đại học vừa được giao quyền, vừa bị giới hạn trong thực thi.
Thứ hai: Chưa rõ ràng về “thực quyền” cho thành viên hội đồng trường: Hội đồng trường đang chưa nhận được sự ủy quyền thực chất. Khi người đại diện có quyền quyết định, hội đồng trường mới có thể vận hành hiệu quả.
Thứ ba: Chưa nhận thức đủ về tự chủ: Một số trường đang có quan niệm “tự chủ” là “tự bơi”, tự chịu trách nhiệm toàn bộ, dẫn đến tâm lý e ngại, lo ngại rủi ro, chưa dám mạnh dạn đổi mới.
Phóng viên: Hiện nay, mô hình đại học có nhiều trường thành viên (mô hình 2 cấp) như Đại học Quốc gia Hà Nội đang được quan tâm và trở thành vấn đề được nhiều chuyên gia giáo dục thảo luận. Việc thực hiện quyền tự chủ khi là trường thành viên có gì khác biệt so với các trường đơn lẻ? Xin Giáo sư chia sẻ dưới góc nhìn của một nhà quản lý.
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Trong mô hình đại học có trường đại học thành viên, vấn đề tự chủ có phần phức tạp hơn do cần phân định rõ ràng quyền và trách nhiệm giữa đại học và các trường thành viên. Luật Giáo dục đại học hiện hành đã bước đầu định nghĩa khái niệm “đại học” là tổ chức giáo dục có trường đại học thành viên. Tuy nhiên, cách thức vận hành, phân quyền chưa có quy định cụ thể, đặc biệt là khi mỗi trường thành viên có một hội đồng trường, đại học vùng hoặc đại học quốc gia cũng tồn tại một hội đồng trường riêng. Nếu không rõ ràng rất dễ xảy ra tình trạng “chồng chéo quyền lực”.
Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi đang đề xuất không thành lập hội đồng trường tại các trường đại học thành viên, thay vào đó chỉ duy trì một hội đồng đại học vùng hoặc đại học quốc gia. Tôi cho rằng đề xuất này là hợp lý để xây dựng hệ thống quản trị hiện đại hơn, vai trò hội đồng trường sẽ được xác lập đầy đủ, có cơ chế phối hợp, phân quyền minh bạch hơn. Hội đồng trường cần là “cánh tay nối dài” của Nhà nước.
Phóng viên: Hiện nay trên thế giới, các mô hình tự chủ đại học và quản trị thông qua hội đồng trường được tổ chức như thế nào? Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm gì từ những mô hình đó? Xin Giáo sư cho ví dụ.
Giáo sư Nguyễn Quý Thanh: Nhiều quốc gia trên thế giới đã phát triển thành công mô hình đại học tự chủ với hội đồng trường có thực quyền. Ở đó, thành viên hội đồng trường bao gồm những người được lựa chọn kỹ lưỡng, là tập hợp các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, nhà quản trị doanh nghiệp… Họ là người được ủy quyền thực sự trong các quyết định chiến lược.
Ví dụ điển hình là hệ thống Đại học California ở Mỹ, gồm khoảng 10 trường đại học thành viên với quyền tự chủ tương đối nhưng vẫn chịu sự quản lý chung bởi Hội đồng nhiệm kỳ (Board of Regents) có thẩm quyền quyết định ngân sách, chính sách, bổ nhiệm hiệu trưởng… Mô hình này giúp tối ưu hóa nguồn lực, tránh sự trùng lặp, đồng thời nâng cao chất lượng bằng cách điều phối, phân bổ nguồn lực đúng chỗ và phát triển các thế mạnh riêng biệt của từng trường thành viên.
Hiện nay, nhiều chuyên gia đã đề xuất thành lập các hệ thống đại học (university systems) hoặc các cụm đại học (university clusters) - mô hình mà ở đó nhiều trường đại học cùng loại, có tính chất gần giống nhau sẽ được gom lại, hoạt động dưới một hệ thống quản trị chung. Ở Việt Nam, với khoảng 200 trường đại học và cao đẳng công lập, việc xây dựng các hệ thống đại học theo mô hình này có thể là một thách thức lớn, đòi hỏi sự quy hoạch, điều phối bài bản và đặc biệt là sự thay đổi trong cơ chế quản lý, tạo ra quyền tự chủ thực sự cho các trường.
Từ góc độ quy hoạch hệ thống đại học, tôi cho rằng cần cân nhắc việc gom các trường cùng lĩnh vực về một đầu mối quản lý chung. Ví dụ, trường thuộc lĩnh vực kinh tế gom về thành đại học kinh tế, các trường kỹ thuật về một đại học kỹ thuật… Điều này giúp xây dựng các cụm đại học chuyên ngành, tạo sự tập trung nguồn lực, tránh phân tán, đồng thời phát huy hiệu quả đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!
Hà Giang