Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội để làm rõ hơn giá trị lịch sử của Nghị quyết 57, vai trò của Bộ Giáo dục và đào tạo và các trường đại học trong tiến trình thực hiện mục tiêu lớn này, cũng như những bài học kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể vận dụng.
Giáo sư Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội
Xin Giáo sư đánh giá về bối cảnh ra đời và ý nghĩa lịch sử của Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Giáo sư Vũ Minh Giang: Mỗi văn kiện quan trọng của Đảng đều ra đời trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của sự phát triển đất nước và sự vận động không ngừng của thế giới. Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được hình thành trong bối cảnh toàn cầu đang bước vào kỷ nguyên của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với những chuyển đổi sâu rộng và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhìn rộng ra các nước trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo. dữ liệu lớn, internet vạn vật… để số hóa các hoạt động của nền kinh tế, xã hội và quản trị nhà nước. Chuyển đổi số không còn là lựa chọn mà đã trở thành xu thế tất yếu, giống như một cuộc cách mạng có quy mô toàn cầu. Đối với Việt Nam, đây là cơ hội để bứt phá, tận dụng lợi thế nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển với các quốc gia tiên tiến.
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn xác định khoa học, công nghệ cùng với giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, thực tế triển khai còn tồn tại một số điểm “nghẽn” về cơ chế, chính sách và phương thức quản lý. Cách thức tổ chức, thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ vẫn nặng về quy trình hành chính, đánh giá quy trình thay vì chú trọng kết quả đầu ra - điều mà các quốc gia phát triển rất coi trọng. Ngoài ra, nhận thức chưa đầy đủ về tính rủi ro, tính mở của hoạt động nghiên cứu khoa học cũng làm giảm sút động lực sáng tạo của đội ngũ nghiên cứu.
Vì thế, Nghị quyết số 57-NQ/TW được kỳ vọng sẽ tháo gỡ các điểm nghẽn đó, tạo lập môi trường thể chế thuận lợi cho khoa học, công nghệ phát triển đúng tầm là động lực then chốt cho tăng trưởng quốc gia.
Có ý kiến ví Nghị quyết 57-NQ/TW như “Khoán 10” năm 1988, Giáo sư nghĩ sao về sự so sánh này?
Giáo sư Vũ Minh Giang: Cả “Khoán 10” năm 1988 và Nghị quyết 57 đều mang tính chất đột phá. Nếu như “Khoán 10” từng tháo gỡ “nút thắt” cho nền nông nghiệp Việt Nam trước đây, thì Nghị quyết 57 hứa hẹn sẽ mở ra thời kỳ phát triển mới cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - lĩnh vực được coi là “khâu đột phá” quyết định năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên số. Vì vậy, văn kiện này có giá trị hết sức đặc biệt, mang tầm vóc lịch sử đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Một trong những nội dung đột phá của Nghị quyết 57 là chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy “quản lý nhà nước” sang tư duy “quản trị quốc gia”, đề cao sáng tạo, linh hoạt trong triển khai chính sách, khuyến khích và bảo vệ những ý tưởng mới, mô hình mới, giải pháp mới. Điều này hứa hẹn sẽ giải phóng sức mạnh to lớn của cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và toàn xã hội trong nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới sáng tạo.
Vậy giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng có vai trò gì trong việc đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và chuyển giao tri thức? Xin Giáo sư chỉ rõ.
Giáo sư Vũ Minh Giang: Để làm rõ vai trò của giáo dục đào tạo trong công cuộc phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Tôi xin đề cập tới một số tư tưởng lớn mang tính lịch sử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ những ngày đầu độc lập, đã khẳng định ba quyết định lớn liên quan trực tiếp tới giáo dục, đào tạo mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị định hướng, đặc biệt khi đối chiếu với tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển giáo dục đại học - cao đẳng.
Thứ nhất, Bác nêu cao sứ mệnh “nâng cao dân trí” như nền tảng của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Đây không chỉ là khẩu hiệu thời kháng chiến mà còn là tư tưởng xuyên suốt cho sự phát triển của quốc gia hiện đại. Ngày nay, dân trí không chỉ dừng lại ở “biết đọc, biết viết”, mà mở rộng sang trình độ công nghệ, kỹ năng số, ngoại ngữ và năng lực đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, Bác viết thư gửi học sinh toàn quốc nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên sau ngày Độc lập (1945). Bức thư không chỉ đơn thuần thể hiện tình cảm của Bác với học sinh mà còn chứa đựng một tư tưởng lớn: Khát vọng dân tộc được sánh vai với các cường quốc năm châu. Điều này đặt lên vai giáo dục và thế hệ trẻ sứ mệnh lịch sử: Không chỉ giữ độc lập mà còn vươn lên, làm chủ khoa học - công nghệ để khẳng định vị thế quốc gia.
Thứ ba, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dự lễ khai giảng và phát bằng tốt nghiệp tại Đại học Đông Dương, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại: Đại học không chỉ là nơi dạy chữ, mà còn là cái nôi đào tạo nhân tài, nơi khởi nguồn tri thức mới. Chính từ môi trường này đã xuất hiện những tên tuổi lớn như nhà cách mạng Nguyễn Thái Học; Cố Tổng Bí thư Trường Chinh; Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Giáo sư, Bác sĩ Tôn Thất Tùng… những nhân tài góp phần to lớn làm nên lịch sử dân tộc.
Ba quyết định lớn này cho thấy giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học luôn được coi là động lực then chốt cho phát triển quốc gia. Nếu trước đây cần “thổi vào dân tộc khát vọng độc lập” thì nay phải “thổi vào dân tộc khát vọng đổi mới sáng tạo, làm chủ khoa học - công nghệ”. Nghị quyết 57 đã khẳng định đại học không chỉ là một cấp học, mà là trung tâm nghiên cứu, sáng tạo tri thức mới, là “bệ phóng” cho khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển giao tri thức vào thực tiễn.
Giáo dục phổ thông rèn tri thức nền tảng, còn giáo dục đại học là nơi sản sinh tri thức mới, tham gia trực tiếp vào nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm công nghệ - điều mà các viện nghiên cứu thuần túy khó lòng sánh được về quy mô và nguồn nhân lực đông đảo đóng góp cho sự nghiệp nghiên cứu này.
Hiện nay, các nước trên thế giới đã và đang thực hiện quá trình nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, và chuyển giao công nghệ như thế nào? Xin Giáo sư chia sẻ một số mô hình mà Giáo sư ấn tượng.
Giáo sư Vũ Minh Giang: Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chủ trương phát triển dựa vào đại học (development based on university) là con đường tất yếu. Các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc… đều đã chứng minh thành công của mô hình này. Mỹ có Đại học Stanford, Nhật Bản có Đại học Tokyo, Hàn Quốc có Đại học Quốc gia Seoul đều là những “xưởng sáng tạo” tri thức mới, nơi phát minh ra công nghệ, mô hình kinh tế, giải pháp xã hội. Singapore coi đóng góp của Đại học Quốc gia Singapore không phải ở nguồn thu từ nghiên cứu, mà ở sự phát triển của đại học quyết định tới sự phát triển của quốc gia.
Tôi lấy ví dụ mô hình Chương trình 211 (21st century and approximately 100 universities) của Trung Quốc được khởi xướng vào năm 1995, với mục tiêu xây dựng khoảng 100 trường đại học trọng điểm với các lĩnh vực chuyên môn trọng yếu trong thế kỷ 21. Mục tiêu của chương trình là đưa các trường này trở thành trung tâm đào tạo nhân tài trình độ cao, nâng cao năng lực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng để Trung Quốc có hệ thống đại học cạnh tranh toàn cầu, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thành công của Chương trình 211 đã nâng tầm vị thế đại học Trung Quốc, nhiều trường trong Chương trình 211 như Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Phúc Đán, Đại học Chiết Giang… đã có những bước tiến dài, lọt vào các bảng xếp hạng đại học hàng đầu thế giới. Thành công của Chương trình 211 cũng mở đường cho một chương trình có chọn lọc hơn - Chương trình 985, nhằm xây dựng một số trường đẳng cấp quốc tế, có khả năng đứng vào top đầu thế giới. Chỉ sau hơn một thập kỷ, các trường đại học trọng điểm của Trung Quốc đã có bước phát triển vượt bậc, vươn lên nhóm đầu của khu vực và thế giới - điều mà trước đó dường như còn rất xa vời. Sự bứt phá của giáo dục đại học này nhanh chóng tạo ra “đòn bẩy” thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của toàn nền kinh tế - xã hội Trung Quốc.
Việt Nam có thể vận dụng kinh nghiệm quốc tế như thế nào để thực hiện mục tiêu của Nghị quyết trong thời gian tới? Xin Giáo sư cho biết.
Giáo sư Vũ Minh Giang: Ở các nước phát triển, các trường đại học chính là “cái nôi” của nghiên cứu khoa học, nơi sản sinh ra tri thức mới, đóng góp trực tiếp cho sự phồn vinh của quốc gia. Nhiều giải Nobel, giải thưởng quốc tế danh giá đều xuất phát từ các trường đại học. Ở Việt Nam, đội ngũ các nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên đại học chiếm lực lượng đông đảo và có trình độ cao, tạo nên tiềm năng rất lớn cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Nghị quyết 57 cũng chỉ rõ mục tiêu xây dựng các trường đại học thành trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, nơi hình thành các sản phẩm thử nghiệm, các công nghệ có khả năng thương mại hóa. Mô hình này được áp dụng thành công tại nhiều nước tiên tiến, nơi các doanh nghiệp đầu tư vào đại học để phát triển sản phẩm mới, từ đó rút ngắn con đường từ phòng thí nghiệm ra thị trường.
Tuy nhiên, để một nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, không thể chỉ dừng lại ở quan điểm, chủ trương. Điều quan trọng là phải được cụ thể hóa bằng hệ thống các văn bản pháp quy, các thiết chế, các chính sách và hành lang pháp lý đầy đủ để triển khai đồng bộ, hiệu quả trên thực tế. Đối với lĩnh vực khoa học - công nghệ hay giáo dục đại học cũng vậy, cần có các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư, chương trình hành động kèm theo để cụ thể hóa từng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết đề ra.
Các quốc gia được ví như “con rồng châu Á” như Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc… cũng đều dựa vào khoa học, công nghệ và giáo dục để phát triển. Họ tập trung đầu tư xây dựng những đại học lớn làm trung tâm sản sinh tri thức, phát minh, sáng chế, sau đó lan tỏa các kết quả này vào đời sống xã hội và nền kinh tế. Đây chính là con đường mà Việt Nam cần đi nếu muốn vươn lên trở thành quốc gia phát triển.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!
Hà Giang