Chuyển đổi số quốc gia, trong đó có ngành giáo dục và đào tạo là một trong những chiến lược quan trọng khi thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW và Đề án Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Trong xu thế đó, yêu cầu xây dựng một hệ thống dữ liệu toàn diện, thống nhất, kịp thời về giáo dục trở thành nhiệm vụ cấp thiết, đặt nền móng cho mọi chính sách phát triển bền vững của ngành. Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi) đã đưa vào quy định xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo – một bước tiến có ý nghĩa chiến lược.
Quy định pháp lý mới trong Dự thảo Luật Giáo dục (sửa đổi)
Theo dự thảo Luật, đây là tập hợp dữ liệu về cơ sở giáo dục, nhà giáo, người học và các dữ liệu hành chính được hình thành trong quá trình tổ chức, hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân. Đặc biệt, thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục, đào tạo có giá trị pháp lý như văn bản giấy khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác thực điện tử theo quy định của Luật Giao dịch điện tử. Dự thảo Luật cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Giáo dục và đào tạo (GDĐT) và các bộ, cơ quan ngang bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc này, nhằm đảm bảo thống nhất, tránh chồng chéo.
Thực tế cho thấy, việc xây dựng cơ sở dữ liệu này đã được triển khai hiệu quả ở một số cấp học, đặc biệt trong hệ thống giáo dục đại học, và nay được luật hóa nhằm mở rộng áp dụng thống nhất từ bậc mầm non đến phổ thông.
Thực tiễn xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo tại Việt Nam
Nhiều năm nay, Bộ Giáo dục vào đào tạo (GDĐT) đã xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu ngành. Tính đên năm 2024, theo báo cáo của Bộ GDĐT, Bộ GDĐT đã hoàn thành xây dựng 100% các cơ sở dữ liệu của ngành giáo dục. Trong đó, đối với cơ sở dữ liệu giáo dục mầm non, đã số hóa dữ liệu của gần 22.000 cơ sở giáo dục và nhóm trẻ độc lập, gần 500 ngàn hồ sơ giáo viên và hơn 5 triệu hồ sơ trẻ em. Đối với dữ liệu cơ sở giáo dục phổ thông, đã số hóa dữ liệu của hơn 26,000 cơ sở giáo dục; gần 800 ngàn hồ sơ giáo viên và hơn 18 triệu hồ sơ học sinh. Cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học (HEMIS) với 470 cơ sở đào tạo đại học, trên 25.000 chương trình đào tạo, trên 100.000 hồ sơ cán bộ, gần 3 triệu hồ sơ người học.
Triển khai Đề án số 06, cơ sở dữ liệu ngành giáo dục đã kết nối thành công với các cơ sở dữ liệu quốc gia. Từ năm 2022, cơ sở dữ liệu ngành giáo dục đã kết nối và xác thực và định danh của hơn 24 triệu giáo viên và học sinh (đạt tỷ lệ gần 98%). Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục cũng đã làm giàu cho cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thông tin giáo dục của hơn 24 triệu công dân.
Kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm. Cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học (HEMIS) hàng năm đã kết nối và đồng bộ chia sẻ dữ liệu việc làm của trên 97.000 sinh viên đã tốt nghiệp. Hiện nay các cơ sở đào tạo đang tiếp tục rà soát cập nhật dữ liệu sinh viên ra trường để có báo cáo đánh giá, phân tích tin cậy. Trên cơ sở dữ liệu sạch, ngành giáo dục đã và đang triển khai hiệu quả các ứng dụng phục vụ người dân. Đã đưa vào sử dụng dịch vụ công trực tuyến cho phép 100% học sinh khoảng 1 triệu thí sinh hàng năm đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT. Đã đưa vào sử dụng dịch vụ công trực tuyến phục vụ gần 700.000 thí sinh đăng ký các nguyện vọng tuyển sinh vào đại học, thanh toán lệ phí xét tuyển trực tuyến và thí sinh xác nhận nhập học trực tuyến.
Từ năm 2023, Bộ GDĐT đã phối hợp với Bộ Công an đưa vào sử dụng chính thức công cụ khai thác dữ liệu dân cư trên hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục nhằm phục vụ các cơ sở giáo dục kiểm tra, xác nhận cho thí sinh về thông tin cư trú phục vụ công tác tuyển sinh đầu cấp. Mỗi năm phục vụ hàng triệu thí sinh thực hiện tuyển sinh đầu cấp và tốt nghiệp THPT sử dụng dịch vụ này.
Ảnh minh họa
Dù đạt được nhiều kết quả, thực tiễn triển khai cho thấy vẫn còn những thách thức lớn. Đó là sự thiếu thống nhất về tiêu chuẩn dữ liệu, phần mềm, hạ tầng mạng giữa các địa phương; tình trạng một số địa phương số hóa và kết nối dữ liệu đồng bộ, trong khi nơi khác chưa triển khai hoặc triển khai chậm. Điều này làm giảm tính liên thông, hiệu quả của hệ thống dữ liệu chung.
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo vào Luật Giáo dục là bước đi cần thiết, nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất cho toàn quốc, thúc đẩy các địa phương đồng bộ triển khai. Cơ sở dữ liệu này sẽ giúp các cấp quản lý nắm bắt chính xác thực trạng nguồn lực, cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo để điều chỉnh chính sách kịp thời. Phụ huynh, học sinh có thể dễ dàng tiếp cận thông tin công khai về chất lượng cơ sở giáo dục, giảm nguy cơ tiêu cực, gian lận trong tuyển sinh, đào tạo.
Đây cũng là tiền đề để ngành tiếp tục triển khai các ứng dụng số quan trọng như học bạ điện tử, bằng cấp số hóa, tuyển sinh trực tuyến, cá nhân hóa quá trình đào tạo theo năng lực và nhu cầu từng học sinh – sinh viên.
Tuy vậy, để cơ sở dữ liệu quốc gia phát huy đầy đủ giá trị, cần có lộ trình thực hiện hợp lý, bảo đảm đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, chuẩn hóa dữ liệu, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật chung và đặc biệt là đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật viên am hiểu chuyên môn công nghệ thông tin tại các cơ sở giáo dục.
Xây dựng dữ liệu quóc gia về giáo dục và đào tạo không chỉ là công cụ quản lý mà còn là yếu tố nền tảng để phát triển một nền giáo dục mở, chất lượng, minh bạch. Việc đưa nội dung này vào Dự thảo Luật Giáo dục là bước đi đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và xu thế quốc tế. Thành công của nhiệm vụ này sẽ đóng góp vào hiệu quả chuyển đổi số toàn ngành trong những năm tới.
Hà Giang