Xếp hạng đại học đã trở thành một đặc điểm nổi bật trong bối cảnh giáo dục đại học toàn cầu, ảnh hưởng đến nhận thức về sự xuất sắc trong học thuật và chất lượng của trường. Mong muốn được quốc tế công nhận và thu hút nhân tài hàng đầu cũng như nguồn tài trợ nghiên cứu đã thúc đẩy Việt Nam tham gia vào bảng xếp hạng đại học. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một loạt chính sách nhằm nâng cao vị thế của các trường đại học trong bảng xếp hạng toàn cầu. Các chính sách này bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như: nghiên cứu học thuật; trình độ giảng viên; phát triển cơ sở hạ tầng và quốc tế hóa. Mục tiêu bao trùm là tạo ra một môi trường thuận lợi để các trường đại học phát triển vượt trội, không chỉ đáp ứng nhu cầu giáo dục trong nước mà còn đạt được sự công nhận quốc tế.
Xếp hạng đại học bổ sung thêm một cách nhìn mới, giúp nhìn nhận vị trí tương quan giữa các trường
Thực tế, xếp hạng chỉ là một trong nhiều cách thức để đánh giá chất lượng đại học. Việt Nam thường quen với hệ thống kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục, chương trình đào tạo, các kỳ thi đánh giá chuẩn đầu ra. Xếp hạng đại học bổ sung thêm một cách nhìn mới, giúp nhìn nhận vị trí tương quan giữa các trường. Tuy nhiên, bài toán đặt ra là làm sao để xếp hạng đại học không trở thành cuộc đua hình thức?
Phóng viên Tạp chí Giáo dục đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Nguyễn Lộc - Nguyên Phó Viện trưởng Viện khoa học Giáo dục Việt Nam về câu chuyện xếp hạng đại học. Theo Giáo sư, xếp hạng đại học không phải là cuộc đua vị trí mà phải tạo thành động lực thúc đẩy các trường cải thiện chất lượng một cách thực chất, bền vững.
Giáo sư Nguyễn Lộc - nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Phóng viên: Thưa Giáo sư, hiện nay các trường đại học ở Việt Nam ngày càng quan tâm đến xếp hạng quốc tế. Theo Giáo sư, việc xếp hạng này đang có tác động thế nào đến hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nói chung?
Giáo sư Nguyễn Lộc: Tôi biết hiện nay đã có một số trường xác định việc có mặt trong bảng xếp hạng toàn cầu là nhiệm vụ chiến lược, thành lập hẳn bộ phận chuyên trách hoặc giao cho một người cụ thể phụ trách trực tiếp. Đây là một tín hiệu tích cực. Xếp hạng đại học là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng của các trường, giúp người học và xã hội có cái nhìn rõ ràng hơn về vị trí và uy tín của các trường.
Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng: Xếp hạng đang tạo ra cạnh tranh giữa các trường, nhưng đó phải là sự cạnh tranh lành mạnh. Đã nói tới xếp hạng, chất lượng, thì chắc chắn phải đi kèm với đầu tư. Ngày nay, các trường càng nhận thức rõ vai trò của xếp hạng thì càng phải coi đó là một nhiệm vụ chính thức, không còn mang tính “hình thức” hay chạy theo phong trào. Xếp hạng không phải mục tiêu cuối cùng, mà chỉ là công cụ giúp các trường đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục một cách bền vững.
Phóng viên: Hiện nay, có một số bảng xếp hạng đại học thế giới uy tín như: Bảng Xếp hạng học thuật các trường đại học thế giới - Academic Ranking of World Universities (ARWU); Bảng Xếp hạng các trường đại học thế giới của QS - QS World University Rankings (QS-Quacquarelli Symonds); Bảng Xếp hạng các trường đại học thế giới của THE - Times Higher Education World University Rankings. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về độ tin cậy của các bảng xếp hạng, song sự ảnh hưởng tích cực của chúng ngày càng tăng. Cho đến nay, một số trường đại học ở Việt Nam có mặt trong bảo xếp hạng đại học uy tín như: Đai học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Đà Nẵng…
Theo Giáo sư, sự hiện diện này mang lại những giá trị cụ thể gì đối với các trường và nền giáo dục đại học tại Việt Nam?
Giáo sư Nguyễn Lộc: Việc một số trường đại học Việt Nam có tên trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế cho thấy chúng ta đã có những bước tiến rõ nét trong nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu khoa học. Thứ hạng không nằm ở con số, mà có ý nghĩa phản ánh mức độ hội nhập quốc tế, mức độ được công nhận của các công trình nghiên cứu, chất lượng giảng dạy cũng như mạng lưới hợp tác quốc tế.
Khi xuất hiện trên các bảng xếp hạng này, các trường dễ dàng thu hút hơn các nguồn lực quốc tế, các dự án nghiên cứu… Đồng thời tạo ra tác động nội bộ, khuyến khích cải thiện chất lượng từ chính đội ngũ của trường. Tuy nhiên, tôi cũng xin nhắc lại, xếp hạng không phải đích đến cuối cùng mà chỉ là một công cụ để các trường soi chiếu, từ đó nỗ lực vươn lên một cách bền vững.
Phóng viên: Nói về thứ hạng của đại học Việt Nam hiện nay trên các bảng xếp hạng quốc tế, Giáo sư có nhận xét gì?
Giáo sư Nguyễn Lộc: Thực tế là thứ hạng của đại học Việt Nam còn khá khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó một lý do là tuổi đời của các trường. Trong khi các trường đại học có thứ hạng cao trên thế giới thường có quá trình hình thành và phát triển vài trăm năm như các trường đại học ở Mỹ cho đến xấp xỉ nghìn năm như các trường ở Anh và châu Âu. Như vậy, so với các trường trên thế giới, các trường đại học Việt Nam nhìn chung vẫn còn rất trẻ, chúng ta chỉ mới đi được chặng đường đầu tiên.
Phóng viên: Vậy các nước khác đã làm gì để vươn lên trên bảng xếp hạng? Có bài học nào Việt Nam có thể học hỏi? Xin Giáo sư chỉ ra một vài ví dụ.
Giáo sư Nguyễn Lộc: Có nhiều kinh nghiệm quốc tế đáng tham khảo. Ví dụ, Trung Quốc ngay từ năm 1993 đã thông qua Định hướng Cải cách và Phát triển Giáo dục với nội dung nổi bật là xây dựng 100 trường đại học trọng điểm (Key universities). Nội dung này sau được cụ thể hóa hơn trong Dự án nổi tiếng 985 được công bố vào năm 1998 với mục tiêu xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế (World-class universities). Riêng ngân sách dành cho giáo dục đại học vào thời điểm đó được tăng lên gấp đôi với số tiền là hơn 10 tỷ đô la Mỹ, chiếm tới 1% GDP của quốc gia. Những nội dung cải cách này đã mang kết quả rõ nét là số trường đại học của Trung Quốc có mặt trong top 50 trường hàng đầu thế giới tăng từ 1 vào năm 2004 đến 4 vào năm 2022, chưa kể đến rất nhiều trường đại học Trung Quốc có mặt trong các thứ hạng thấp hơn.
Hàn Quốc cũng là một ví dụ đáng nghiên cứu. Năm 1999 Chính phủ Hàn Quốc đề ra một chính sách giáo dục đại học mới cho thế kỷ 20-21, được gọi là Trí tuệ Hàn Quốc 21 (Brain Korea 21-BK21). Mục đích trung tâm của BK 21 là phát triển các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp thế giới. Chính phủ Hàn Quốc quyết định dành ngân sách 1,2 tỷ Đô la Mỹ cho Dự án trong thời gian 7 năm. Cùng với nhiều nỗ lực khác, có thể nói giáo dục đại học Hàn Quốc đã có những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian vừa qua. Năm 2004 Hàn Quốc không có trường đại học nào nằm trong tốp 50 của thế giới. Trường Đại học Quốc gia Seoul, niềm tự hào của Hàn Quốc lúc đó mới xếp thứ 119. Đến nay, Bảng xếp hạng QS 2022 đã có tên 2 trường đại học của Hàn Quốc trong top 50 trường đại học hàng đầu thế giới danh giá.
Phóng viên: Vậy đối với Việt Nam, Giáo sư cho rằng đâu là giải pháp khả thi để cải thiện thứ hạng?
Giáo sư Nguyễn Lộc: Trước hết, các trường đại học phải chủ động. Muốn cải thiện vị trí, phải tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng công bố khoa học, xây dựng các bộ phận chuyên trách về xếp hạng.
Tôi lấy ví dụ: Hiện nay, Việt Nam đang quy định số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm. Con số này còn rất thấp so với thế giới. Các trường phải tăng cường năng lực nghiên cứu, hỗ trợ giảng viên, đầu tư vào các nhóm nghiên cứu mạnh, chứ không thể chỉ chạy theo số lượng công bố.
Bên cạnh đó, sự đầu tư của Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng. Nếu chỉ trông chờ vào nội lực của từng trường, chúng ta khó có thể tạo ra bước đột phá. Nghị quyết số 57-NQ/TW đặt ra mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu lọt vào nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trở thành trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số có lợi thế. Những mục tiêu này thể hiện quyết tâm nâng cao chất lượng giáo dục đại học, khoa học, công nghệ của cả hệ thống.
Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh: Để đạt được các mục tiêu đó, chúng ta không thể chỉ dựa vào một vài trường “điểm”, một vài tên tuổi nổi bật. Phải nâng tầm đồng bộ cả hệ thống. Mỗi trường phải xác định chiến lược dài hạn, đầu tư mạnh vào con người, cơ sở vật chất, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế. Đồng thời, cần coi xếp hạng là động lực nâng cao chất lượng, chứ không phải là cái đích hình thức. Đầu tư cho xếp hạng thực chất chính là đầu tư cho sự phát triển bền vững.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của Giáo sư!
Hà Giang