Đổi mới giáo dục nghề nghiệp từ 5 chính sách lớn

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giáo dục nghề nghiệp (GDNN) đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng nguồn nhân lực có kỹ năng nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. GDNN đang bước vào giai đoạn đổi mới mạnh mẽ, không chỉ ở nội dung, phương thức đào tạo mà còn ở cơ chế, chính sách, tài chính và khung pháp luật.

Thực hiện Nghị quyết số 51/NQ-CP, ngày 18/3/2025 của Chính phủ, Nghị quyết số 77/2025/UBTVQH15, ngày 21/4/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh Chương trình lập pháp năm 2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã triển khai xây dựng Luật GDNN (sửa đổi) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Dự kiến có 5 chính sách sẽ được xây dựng và thể chế hóa vào Luật GDNN (sửa đổi).

5 trụ cột đổi mới lớn

Một là, đổi mới hệ thống GDNN. Việc đổi mới hệ thống nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi công dân, đẩy mạnh phân luồng, tăng số lượng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào GDNN; thực hiện đào tạo nghề, dạy văn hoá, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học tại các cơ sở GDNN; đẩy nhanh lộ trình phổ cập nghề cho thanh niên. Đổi mới hệ thống nhằm khắc phục hạn chế, yếu kém về hướng nghiệp, phân luồng, liên thông; bất hợp lý về cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo; quy mô, chất lượng, hiệu quả đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ngành, nghề mới, kỹ năng tiên tiến, hội nhập quốc tế. Như vậy, chính sách mới tập trung phát triển chương trình đào tạo mở, linh hoạt giữa giáo dục phổ thông, nghề nghiệp và đại học. Việc này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh Bộ GDĐT quản lý đồng bộ các bậc học, giúp thiết lập lộ trình học tập hiệu quả, khuyến khích người học tham gia hệ thống GDNN.

Hai là, đổi mới chương trình, tổ chức đào tạo và đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Đổi mới đa dạng hóa chương trình, thời gian, hình thức, phương thức đào tạo và cấp văn bằng, chứng chỉ theo hướng mở, linh hoạt, thực tiễn; tạo điều kiện để người dân học tập suốt đời, nâng cao, cập nhật và chuyển đổi năng lực nghề nghiệp nhằm thích ứng với sự thay đổi của công nghệ và thị trường lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo cao đẳng; nhân rộng, chuyển giao các chương trình đào tạo tiên tiến, cập nhật kịp thời các tiêu chuẩn, công nghệ mới trong GDNN, đáp ứng yêu cầu nhân lực có kỹ năng nghề cao, nhất là những ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn cho phát triển đất nước.

Ba là, thu hút hiệu quả doanh nghiệp và đầu tư nước ngoài vào GDNN. Theo đó, chính sách về hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài trong GDNN; chính sách thu hút lao động của doanh nghiệp tham gia giảng dạy các trình độ GDNN mở rộng và tận dụng những lợi thế về nguồn vốn và đội ngũ giảng dạy đến từ doanh nghiệp gắn đào tạo với sản xuất kinh doanh, dịch vụ sẽ được bổ sung.

Bốn là, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư dựa trên chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch của cơ sở GDNN. Các chính sách của Luật tập trung vào minh bạch trong quản lý tài chính, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho người học thông qua học phí hợp lý, học bổng và hỗ trợ tài chính. Mục tiêu là xây dựng hệ thống GDNN hiện đại, công khai, công bằng, thúc đẩy phân luồng học sinh hợp lý và phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển bền vững của xã hội.

Năm là, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về GDNN. Một trong những điểm nhấn quan trọng là đẩy mạnh phân quyền, phát huy vai trò của người đứng đầu, kết hợp cơ chế "tiền kiểm" và "hậu kiểm", đặc biệt với các ngành nghề đặc thù như y, dược. Bên cạnh đó, chính sách cũng chú trọng đơn giản hóa điều kiện đầu tư, giảm bớt thủ tục hành chính để tạo môi trường thuận lợi cho GDNN phát triển. Với hai nội dung chính là phân cấp mạnh mẽ hơn cho các cơ sở đào tạo và tinh gọn quy định pháp lý, chính sách này hứa hẹn mang lại hiệu quả quản lý cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội. Đây cũng là xu hướng quản trị hiệu đại, tạo động lực cho các trường nghề đổi mới mô hình đào tạo.

Một số thách thức và kỳ vọng từ đổi mới cơ chế

Để thực hiện tốt mục tiêu đổi mới GDNN, ngành giáo dục vẫn đối diện với một số thách thức. Thứ nhất, việc thay đổi cơ cấu quản lý GDNN sang Bộ GDĐT cần thời gian để thống nhất bộ máy, quy trình, tránh xáo trộn, gián đoạn hoạt động của các cơ sở GDNN. Thứ hai, nhận thức xã hội về GDNN vẫn còn hạn chế. Thứ ba, năng lực quản lý, điều hành của một số địa phương, cơ sở GDNN cần đảm bảo theo kịp yêu cầu phân cấp, phân quyền.

Các chính sách mới trong dự thảo Luật GDNN thể hiện quyết tâm đổi mới toàn diện, tạo bước đột phá về chất lượng đào tạo nghề nghiệp

Để khắc phục những khó khăn trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp bổ trợ: đẩy mạnh truyền thông xã hội để nâng cao vị thế GDNN; đào tạo, đào tạo lại, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên; tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm các quốc gia có hệ thống GDNN phát triển…

Nếu các chính sách trên được thực hiện thành công, hệ thống GDNN sẽ có bước tiến cả về quy mô và chất lượng, đảm bảo sự đồng bộ về mục tiêu, chuẩn đầu ra, lộ trình học tập, đồng thời giúp phân bổ hiệu quả hơn nguồn lực đầu tư. Các chính sách về tài chính, phân quyền, đảm bảo chất lượng và phân luồng, hướng nghiệp sẽ tạo ra một hệ sinh thái GDNN linh hoạt, hiện đại, trở thành một trong những trụ cột quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, cung cấp nguồn nhân lực chấy lượng cao, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Hà Giang

Bạn đang đọc bài viết Đổi mới giáo dục nghề nghiệp từ 5 chính sách lớn tại chuyên mục Chính sách và thực tiễn giáo dục của Tạp chí Giáo dục. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng liên hệ SĐT: (+84)2462598109 hoặc gửi về hòm thư tapchigiaoduc@moet.gov.vn