Lê Thị Mai Hoa, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, Người đã chỉ ra ba loại “giặc” phải đối mặt là giặc đói, giặc ngoại xâm và giặc dốt, và trong 3 loại giặc trên thì giặc nào cũng nguy hiểm, đòi hỏi dân tộc ta cũng phải chiến thắng.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập trước đồng bào cả nước và nhân dân trên thế giới, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào thời điểm đó, nạn đói năm 1945 do bọn phát xít Nhật gây ra đã làm cho hơn 2 triệu người dân Việt Nam chết đói (chiếm khoảng 10% dân số cả nước Việt Nam) để lại cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ một gánh nặng thiếu thốn lương thực như một thách thức hết sức nguy hiểm. Cùng với trên 95% dân số đất nước chưa biết đọc, biết viết do hậu quả của chính sách ngu dân về giáo dục và đầu độc về văn hóa của thực dân Pháp để lại (hệ thống giáo dục Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp đô hộ rất thiếu thốn, đến năm 1930, tổng số học sinh, sinh viên tất cả các trường từ tiểu học đến đại học chỉ chiếm 1,8% dân số Việt Nam). Đói ăn và đói chữ là tình trạng khốn khổ của dân nghèo, mà họ lại là lực lượng trung kiên của cách mạng.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng chủ trương phải nhanh chóng mang ánh sáng văn hóa đến cho dân, trước hết là làm cho họ thoát khỏi nạn mù chữ để họ nhanh chóng giác ngộ lý tưởng cách mạng, nhanh chóng nắm và quán triệt được chủ trương, đường lối của Đảng. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 03/9/1945, các thành viên Chính phủ đã thống nhất với 6 nhiệm vụ cấp bách mà Hội đồng Chính phủ phải quán triệt:
- Một là, Phát động tăng gia sản xuất, mở các cuộc lạc quyên để chống nạn đói.
- Hai là, Mở phong trào chống nạn mù chữ.
- Ba là, Tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
- Bốn là, Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ các tệ nạn do chế độ thực dân để lại.
- Năm là, Xóa bỏ các thứ thuế vô lý, trước mắt là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuộc phiện.
- Sáu là, Tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết”.
Trong sáu nhiệm vụ đề xuất, thì chiến dịch diệt “giặc dốt” đóng vai trò quan trọng thứ hai sau diệt “giặc đói” với mục đích xóa được nạn thất học, mù chữ sẽ giúp cho dân trí được nâng cao, từ đó sẽ tạo tiền đề, mở lối cho những tư tưởng cách mạng thấm nhuần vào quần chúng, tôn thêm nền móng vững chắc để chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vượt qua những thử thách sống còn.
Triển khai phục vụ chiến dịch xoá mù chữ, ngày 08/9/1945 Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động phong trào “Bình dân học vụ”, là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, nhằm giải quyết “giặc dốt”, một trong các vấn đề cấp bách nhất của nước Việt Nam lúc bấy giờ. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ (gọi tắt là ngành Bình dân học vụ) và cử Ông Nguyễn Công Mỹ làm Tổng Giám đốc. Ngay sau khi thành lập, phong trào “Bình dân học vụ” nhanh chóng lan rộng khắp cả nước, thu hút sự tham gia của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân. Các lớp học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân, các đình, chùa, miếu mạo và chỉ cần vài chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh phản, ghép từ cánh cửa, tấm ván mộc đã trở thành lớp học xóa mù chữ cho mọi người. Ngày 04/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Chống nạn thất học gửi tới toàn dân, Người viết “...Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức, mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi.”[1]
Hưởng ứng phong trào “Bình dân học vụ”, chỉ sau khi lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa truyền đi, trong cả nước đã có hơn 10.000 người tình nguyện tham gia dạy các lớp xóa mù chữ mà không nhận thù lao. Đội ngũ này bao gồm giáo viên đã từng dạy các lớp truyền bá quốc ngữ trước đó và những thanh niên, học sinh, nhân viên, công chức đang làm việc trong các cơ quan, nhà máy, những hướng đạo sinh, góp phần không nhỏ vào việc khơi dậy ý chí, ngọn lửa mong muốn được đi học của mọi người dân, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ phong trào học tập trong Nhân dân.
Khẳng định rằng, phong trào “Bình dân học vụ” đã trở thành một phần của phong trào Thi đua kháng chiến kiến quốc, góp phần quan trọng vào công cuộc diệt giặc dốt. Phong trào phát triển theo đường lối quần chúng được đông đảo quần chúng tham gia, dựa vào sức dân là chính để có thêm các điều kiện tổ chức lớp học. Trong khoảng thời gian hơn một năm Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập, phong trào “Bình dân học vụ” được triển khai mạnh mẽ trong cả nước, giúp cho hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ và đến năm 1952, chiến dịch xóa nạn mù chữ cơ bản được hoàn thành.
2. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau một ngày thành lập Nha Bình dân học vụ, để xác định cách tổ chức và hoạt động cho phong trào, Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện ở Hà Nội và các vùng miền, địa phương trong cả nước. Từ khi được phát động năm 1945 đã làm cho gần 14 triệu đồng bào thoát nạn mù chữ và đang đẩy mạnh việc phát triển lớp dự bị bình dân để củng cố việc đọc thông viết thạo cho những người vừa mới thoát nạn mù chữ và phổ biến cho họ một ít kiến thức phổ thông. Các thầy giáo, cô giáo tham gia dạy xóa mù chữ thuộc đủ các giới, lứa tuổi, không nhận lương, chủ yếu theo phương châm người biết chữ tham gia dạy, người chưa biết chữ thì học, người biết ít vừa dạy cho người chưa biết vừa học những người biết nhiều hơn. Mọi người dân đều nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với việc học, Nhà nước có chính miễn học phí cho người đi học. Để bắt buộc mọi người tham gia học tập, nhiều địa phương đều có những biện pháp mạnh nhằm cưỡng bức mọi người tham gia học tập xóa mù chữ, như: Những ai không chịu đi học đều bị chế giễu, khắp đường của các thôn hay cổng vào chợ đều có trạm kiểm tra bằng cách dựng cổng chào với hình thức đẹp, trên có bảng chữ đề sẵn, đến nơi ai đọc được thì đi qua cổng chính, ai không đọc được thì phải quay về hoặc luồn qua một nách tre thấp, hẹp bên cổng lớn. Lớp học, trường học được tạo dựng rất đơn sơ, nhiều lớp học dùng phấn hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy… Không chỉ xóa nạn mù chữ mà ngành Bình dân học vụ lúc bấy giờ còn mở thêm các lớp bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân lao động nhằm phát triển hệ thống giáo dục nước nhà, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, Trung ương Đảng cũng nhận định, phong trào “Bình dân học vụ” còn một số khuyết điểm, như: Chưa nhận rõ sự quan trọng của công tác bổ túc văn hóa là cơ sở của nền giáo dục nhân dân, có tác dụng lớn trong việc tạo điều kiện cho nhân dân nhất là công nông thực sự làm chủ Nhà nước; Việc tổ chức còn lộn xộn phức tạp, chưa có một hệ thống duy nhất; Chương trình tài liệu chưa kết hợp việc dạy bình dân học vụ với việc học chính trị và thời sự của nhân dân. Cách dạy còn nhiều cái cũ của truyền bá quốc ngữ, nhất là trong việc soạn bài. Hoạt động của bình dân học vụ còn yếu ở chỗ nhiều nơi nhất là ở các vùng tôn giáo, tạm bị chiếm. Nhiều nơi không tổ chức bình dân học vụ. Trong vùng bị tạm chiếm ít lợi dụng các hình thức dạy chữ để giáo dục chính trị cho nhân dân, nhằm giác ngộ nhân dân, đẩy tiến kháng chiến.; Việc tiếp tục dạy cho những người thoát nạn mù chữ còn ít ỏi. Có nơi nhân dân thoát nạn mù chữ một thời gian lại mù chữ trở lại; Sự lãnh đạo của Đảng về giáo dục nói chung và về giáo dục bình dân nói riêng chưa được chặt chẽ. Cán bộ giáo dục còn non nớt, chưa thấm nhuần đường lối chính sách và tác phong của Đảng.
Để đẩy mạnh công tác giáo dục bổ túc văn hoá, với mục đích nâng cao trình độ văn hoá và chính trị của nhân dân lao động (trước hết là công nông binh) để họ phục vụ kháng chiến, phát triển sản xuất đắc lực hơn và thực sự làm chủ Nhà nước, năm 1952 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa II ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW về việc đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa, trong đó Ban Bí thư xác định nhiệm vụ của ngành Bình dân học vụ giai đoạn này là giáo dục bổ túc cho nhân dân (trong đó có cả việc phát triển lớp dự bị) đồng thời vẫn tiếp tục mở lớp chống mù chữ và bổ túc văn hóa cho các đối tượng đã biết chữ để nâng cao trình độ văn hoá và chính trị của nhân dân lao động. Nền giáo dục bổ túc văn hóa dựa trên ba phương châm:
Thứ nhất, Lý luận và thực tiễn thống nhất. Học kết hợp với hành, học để mà dùng. Muốn thế phải căn cứ vào những thực tế trong nước, những nhu cầu cụ thể của nhân dân và của chính sách hiện nay mà giảng dạy.
Thứ hai, Tranh thủ thời gian phục vụ kháng chiến. Nhằm mục đích thiết thực phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Lựa chọn sắp xếp dạy cho nhân dân những điều cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và nắm chính quyền, để họ có thể học trong một thời gian ngắn. Đồng thời chuẩn bị cho họ có thể học lên cao hơn.
- Thứ ba, Dựa vào lực lượng nhân dân; Giáo dục bổ túc là của nhân dân, là do nhân dân xây dựng. Dùng những phương pháp và hình thức tổ chức linh động, mềm dẻo, thích hợp với điều kiện cụ thể và nhu cầu thiết thực từng thời kỳ từng địa phương, từng lớp người.
Nhiệm vụ trước mắt của công tác giáo dục bổ túc văn hóa tập trung vào:
- Một là, Phổ biến chương trình và biên soạn tài liệu giáo khoa.
- Hai là, Thống nhất việc tổ chức và chương trình các lớp bổ túc văn hóa ngoài giờ làm việc.
- Ba là, Hướng dẫn về nghiệp vụ cho cán bộ và giáo viên ở các trường và các lớp.
Căn cứ vào nhu cầu về khả năng hiện nay của đất nước thì việc xây dựng và phát triển cấp I của nền giáo dục bổ túc là chính [2]. Bởi vậy, cán bộ tham gia Bình dân học vụ phải học tập nhiệm vụ mới nêu trên để nắm vững đường lối, chính sách giáo dục bổ túc và phải thấy vinh dự được chấp hành nhiệm vụ đó, cương quyết vượt mọi khó khăn và hăng hái phụ trách. Cán bộ và nhân dân phải coi việc giáo dục bổ túc là một nhiệm vụ thiết thân của mình. Các ban Tuyên huấn các cấp có trách nhiệm, nhiệm vụ phải giúp đỡ cấp uỷ Đảng lãnh đạo chặt chẽ thực hiện việc giáo dục bổ túc cho cán bộ và nhân dân nhất là các Trường phổ thông lao động [3] và cử cán bộ phụ trách giảng chính trị ở các trường đó. Bộ Giáo dục có nhiệm vụ cung cấp chương trình và tài liệu giáo khoa; hướng dẫn về sư phạm cho những giáo viên do các cơ quan đoàn thể cử dạy ở những lớp bổ túc văn hóa ngoài giờ làm việc và thực hiện kiểm tra, theo dõi về phương diện chuyên môn. Các cơ quan, đoàn thể chịu trách nhiệm tổ chức các lớp học, cử người dạy ở các lớp học, bảo đảm việc học tập văn hóa và kiểm tra đôn đốc việc học tập cho cán bộ và nhân viên trong cơ quan.
Tiếp đến, ngày 07/3/1958 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 72-CT/TW về tăng cường lãnh đạo công tác bình dân học vụ để hoàn thành việc thanh toán nạn mù chữ vào cuối năm 1958. Nhiều cấp bộ đảng đã nghiêm chỉnh chấp hành Chỉ thị, nhờ đó phong trào bình dân học vụ phát triển được rộng rãi, bước đầu gây được cơ sở vững chắc trong nhân dân, có nhiều xã, khu phố, thị xã, đã hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn. Song Ban Bí thư Trung ương Đảng đánh giá, phong trào bình dân học vụ vẫn chưa đều; ở một số địa phương, phong trào còn yếu so với yêu cầu, việc lãnh đạo công tác thanh toán nạn mù chữ chưa được kết hợp đúng mức với việc lãnh công tác sản xuất vụ mùa. Việc thanh toán nạn mù chữ cho những đối tượng chủ yếu nhiều nơi chưa chú ý đúng mức, thậm chí hiện nay còn có một số cán bộ xã, xóm, đảng viên chưa đi học. Do đó, phong trào tuy có phát triển rộng rãi, nhưng kết quả mãn khóa sơ cấp còn ít. Tình trạng đó nếu không bổ cứu thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành kế hoạch. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần phải có kế hoạch bổ cứu kịp thời để bảo đảm hoàn thành đúng kế hoạch thanh toán nạn mù chữ.
Để quyết tâm đảm bảo hoàn hành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ, ngày 03/10/1958, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 107-CT/TW, trong đó Ban Bí thư yêu cầu:
- Thứ nhất, các cấp ủy Đảng phải tăng cường lãnh đạo tốt đợt thi đua diệt dặc dốt cuối cùng từ ngày 08/9/1958 đến ngày 19/12/1958. Trước hết cần phải chú trọng lãnh đạo tốt tư tưởng của cán bộ giáo viên bình dân học vụ và các ngành, các giới, làm cho mọi người quyết tâm cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ đã đề ra. Về tổ chức, cần phải củng cố và phát triển mặt trận diệt dốt thật rộng rãi, đồng thời kết hợp chặt chẽ và thường xuyên việc lãnh đạo công tác thanh toán nạn mù chữ với công tác sản xuất vụ mùa, chuẩn bị làm chiêm là công tác trọng yếu nhất và các công tác khác để giữ vững phong trào. Ngoài ra việc lãnh đạo phải cụ thể, cần phải nắm chắc tình hình, phân ra các loại vùng, phân loại những người còn mù chữ theo các trình độ và có kế hoạch giải quyết cho sát; tránh hô hào chung và khoán trắng cho ngành chuyên môn.
Thứ hai, Trong việc thanh toán nạn mù chữ, phải đặc biệt chú trọng thanh toán cho đối tượng chủ yếu bao gồm cán bộ xã, xóm, đảng viên, thanh niên trong Đoàn và ngoài Đoàn. Phải giao trách nhiệm cho các chi bộ, tổ đảng có kế hoạch xóa nạn mù chữ cho những nơi đó. Song song với việc thanh toán nạn mù chữ, cần phải chú trọng mở các lớp bổ túc văn hóa, để cho những người đã thoát nạn mù chữ không mù chữ trở lại và để dần dần nâng cao trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân.
Năm 1965, trong bối cảnh nhân dân cả nước ta đang trong tình trạng trực tiếp chiến đấu chống Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Để giành thắng lợi quyết định trong sự nghiệp cách mạng của cả nước, miền Bắc chúng ta phải cố gắng vượt bậc trong việc đẩy mạnh công cuộc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và tăng cường quốc phòng. Trong việc đẩy mạnh toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, Trung ương Đảng xác định công tác bổ túc văn hóa phải được đặt ra cấp thiết hơn và phải bước vào một thời kỳ phát triển mới. Thời gian từ năm 1958 đến 1965, công tác bổ túc văn hóa, được coi là một công tác rất quan trọng để thúc đẩy cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh một nước có nền kinh tế lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Những cán bộ giáo dục làm công tác bổ túc văn hóa đã phát huy truyền thống tự lực cánh sinh, dựa vào quần chúng để khắc phục mọi khó khăn, phát huy thắng lợi của phong trào bình dân học vụ trước đây, và cũng là do quần chúng nhân dân ta có trình độ giác ngộ chính trị và ý thức làm chủ ngày càng được nâng cao nên đã hăng hái học tập. Phong trào bổ túc văn hóa từng bước phát triển khá đồng đều và vững chắc hơn; việc kết hợp công tác bổ túc văn hóa với công tác trung tâm của địa phương, nhất là công tác sản xuất có chuyển biến. Song ở một vài nơi, nhất là miền núi phong trào còn trì trệ, có lúc bị sút kém nặng, nạn mù chữ còn trầm trọng (ở vùng cao, vùng đạo thiên chúa), nhiều người học xong đã quay lại mù chữ, hình thức tổ chức, quy chế trường, lớp xóa mù chữ, bổ túc văn hóa chưa được nghiên cứu cho phù hợp với điều kiện lao động, công tác, sinh hoạt của quần chúng có nguy cơ dễ tan vỡ…
Bởi vậy, ngày 18/5/1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 97-CT/TW về việc đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa, trong đó nhấn mạnh: bổ túc văn hóa có một vai trò trọng yếu; không những trước kia, hiện nay mà còn lâu dài hơn nữa. Đảng ta, vẫn đặt công tác bổ túc văn hóa lên vị trí hàng đầu trong công tác giáo dục. Công tác bổ túc văn hóa lúc này cần được đặc biệt coi trọng và lãnh đạo chặt chẽ, nhằm đạt được mục đích là nâng cao trình độ văn hóa của cán bộ và nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục chính trị và khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ trên quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh sản xuất, tăng cường quốc phòng, để đưa công tác bổ túc văn hóa chuyển biến và phát triển kịp thời với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, các cấp, các ngành, các đoàn thể cần nhận rõ ý nghĩa quan trọng của công tác bổ túc văn hóa, để có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng và nhận thức, trong nội dung công tác, trong lãnh đạo phong trào, trong cơ cấu tổ chức và trong biện pháp thực hiện.
Như vậy, từ sau Cách mạng Tháng 8/1945, mặc dù đất nước còn nghèo và có chiến tranh liên tiếp, sự nghiệp giáo dục, đào tạo nước ta đã đạt những thành tựu quan trọng, góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học, trung học và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Công cuộc chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được triển khai trong cả nước và có tiến bộ, đã có 16 tỉnh, thành phố, trong đó có 3 tỉnh miền núi, 57% số huyện, 76% số xã được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học đã giảm nhiều. Đã xuất hiện một số nhân tố mới, ở nhiều nơi hình thành phong trào học tập sôi nổi của cán bộ và nhân dân, nhất là thanh niên. Các loại hình trường lớp, từ phổ thông đến đại học, đa dạng hơn, tạo nên cơ hội học tập cho nhân dân. Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, các gia đình, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đã chǎm lo giáo dục nhiều hơn trước, đóng góp rất nhiều công, của xây dựng trường lớp và chǎm lo sự nghiệp giáo dục, nhu cầu học tập của dân không ngừng tǎng lên [4].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII ngành Giáo dục đã cùng với các ngành, các cấp tích cực triển khai công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đến nay, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và đang củng cố, phát huy các kết quả này, tiếp tục phát triển mạnh giáo dục thường xuyên. Bước vào thế kỷ XXI, chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định trong việc phát huy nội lực, phát triển đất nước, hợp tác và cạnh tranh trong hội nhập khu vực và quốc tế, điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao học vấn của những người lao động. Vì vậy, việc thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu là nâng cao mặt bằng dân trí một cách toàn diện, làm cho hầu hết công dân đến 18 tuổi đều tốt nghiệp trung học cơ sở, kết hợp phân luồng sau cấp học này, tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, phát huy cao độ tính độc lập, năng động, sáng tạo và bản lĩnh chính trị của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được xác định là có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010 như Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Nghị quyết Trung ương 2) khoá VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000, ngày 28/12/2000 Bộ Chính trị khóa VIII ban hành Chỉ thị số 61-CT/TW về phổ cập giáo dục trung học cơ sở, trong đó yêu cầu “Nhanh chóng xây dựng và thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở gắn với việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng cập nhật những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ, với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, toàn cầu hoá, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Củng cố và phát huy kết quả của công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; tiếp tục công việc này ở những nơi còn chưa đạt chuẩn. Có kế hoạch cụ thể củng cố và nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các trường sư phạm, đặc biệt là đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm đảm bảo đủ về số lượng và chuẩn hoá về trình độ của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục để thực hiện tốt nội dung chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với giáo viên nói chung và giáo viên tham gia công tác phổ cập trung học cơ sở nói riêng.
Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 61-CT/TW về phổ cập giáo dục trung học cơ sở, cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương tổ chức quán triệt và triển khai nghiêm túc, rộng khắp với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, tạo được sự chuyển biến nhận thức về vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2010, cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục thu được những kết quả quan trọng; cơ sở vật chất được củng cố và phát triển; công tác xã hội hóa giáo dục đã đạt được những tiến bộ nhất định [5]. Tuy nhiên, một số cấp ủy đảng và chính quyền nhận thức chưa đầy đủ về vị trí và tầm quan trọng của công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ cho người lớn; chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở nhiều nơi còn hạn chế, chưa thật vững chắc, nhiều xã ở vùng sâu, vùng xa chưa đạt chuẩn, tỷ lệ lưu ban và bỏ học còn lớn. Số người lớn mù chữ và tái mù chữ còn nhiều ở đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa [6]. Chủ trương phân luồng sau trung học cơ sở chưa được thực hiện nghiêm túc, tỷ lệ học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề rất thấp.
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và phát huy kết quả đã đạt được trong công tác phổ cập giáo dục, ngày 05/12/2011, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn. Trong đó, xác định rõ quan điểm: “Phổ cập giáo dục là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhằm tạo nền tảng dân trí vững chắc để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thực hiện thành công một trong ba khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020. Chăm lo giáo dục cho toàn dân, xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các đoàn thể, của mọi gia đình và toàn xã hội. Kiên trì thực hiện chủ trương phân luồng học sinh sau trung học cơ sở tạo chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh hợp lý cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội. Với mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao trình độ dân trí một cách toàn diện, mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và trung học cơ sở với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, tiến tới phổ cập giáo dục trung học ở những nơi có điều kiện; cơ bản xóa mù chữ và ngăn chặn tái mù chữ ở người lớn; đẩy mạnh công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở đi đôi với phát triển mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông gắn với dạy nghề nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Năm 2024, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 05/12/2011, Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cho người lớn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Giáo dục mầm non có những bước phát triển, tạo niềm tin trong nhân dân. 63/63 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Mạng lưới trường, lớp mầm non phát triển đến các địa bàn dân cư, thôn bản, tạo điều kiện cho phần lớn trẻ em trong độ tuổi được đi học. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ không ngừng được cải thiện (tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi của cả nước đạt 99,75%; tỷ lệ trẻ em được học 2 buổi/ngày đạt 99,9% và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non là 99,7%; 99,6% trẻ em mầm non người dân tộc thiểu số đến trường được tăng cường tiếng Việt). Phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được duy trì, củng cố, chất lượng ngày càng nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới bước đầu có kết quả. Nhiều tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; một số tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2 và mức độ 3; tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi đều tăng so với giai đoạn giai đoạn 2011-2019; giảm tỷ lệ nhập học quá tuổi ở các cấp học; cơ bản khắc phục học sinh bỏ học, lưu ban các cấp học. Công tác xóa mù chữ cho người lớn có chuyển biến tích cực, tăng tỷ lệ người biết chữ của cả nước, chú trọng quan tâm đến các đối tượng người mới biết chữ tiếp tục học tập. Số lượt người tham gia cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ, phổ cập ngoại ngữ, tin học ứng dụng, giáo dục kỹ năng sống, học nghề ngắn hạn tại các thiết chế văn hóa, giáo dục ngoài nhà trường tăng hằng năm, góp phần tạo điều kiện cho người trong độ tuổi lao động có thể tự tạo việc làm hoặc chuyển đổi nghề nghiệp, từng bước thích ứng với những thay đổi của xã hội.
Đánh giá một cách toàn diện, trong suốt quá trình cách mạng của Đảng, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ buổi đầu độc lập, với tầm nhìn chiến lược “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”; kế thừa bài học còn nguyên giá trị của phong trào Bình dân học vụ, trong đó công tác giáo dục, đào tạo, công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những kỳ tích phát triển của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đã triển khai các phong trào, cuộc vận động học tập sâu rộng trong cả nước, vừa giúp người dân biết chữ, có hiểu biết vừa gắn với mục tiêu chính trị nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Trong đó, các mục tiêu học tập cụ thể luôn cần gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; giáo dục phải đi vào cộng đồng, quần chúng lao động, đưa văn hóa học tập đến với mỗi gia đình, mỗi dòng họ; tạo cơ hội tiếp cận đi học công bằng cho mọi người thông qua những trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, những lớp học thuận tiện, gần gũi với người dân được tổ chức ngay tại làng, xã (tương tự lớp bình dân học vụ xưa); nền tảng vững chắc cho sự nghiệp giáo dục phát triển ngày hôm nay, tiền đề thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định xã hộị, xây dựng xã hội học tập trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với chương trình chuyển đổi số quốc gia.
3. Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột diễn ra dưới những hình thức mới và gay gắt hơn. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…diễn biến nghiêm trọng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang là hai xu thế lớn, chi phối sâu sắc tiến trình phát triển của nhân loại. Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc có ảnh hưởng lớn đến phương thức tăng trưởng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư; chuyển dịch từ năng lượng truyền thống sang năng lượng tái tạo, năng lượng xanh sẽ là xu thế rõ nét hơn trong thời kỳ tới. Học tập suốt đời chính là chìa khóa của thế kỷ XXI, vượt xa hơn sự phân chia truyền thống giữa giáo dục ban đầu và giáo dục thường xuyên. Sự cần thiết phải nhìn nhận lại xu hướng giáo dục toàn cầu, trong đó có yêu cầu các nền giáo dục buộc phải chuyển dịch theo hướng mở và học tập suốt đời, các xã hội cần thiết phải phát triển theo hướng trở thành xã hội học tập. Nhiệm vụ thúc đẩy học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập đã trở thành một hướng đi tất yếu của mọi quốc gia để bảo đảm sự phát triển thịnh vượng, nhân văn, bền vững.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ra đời tác động mạnh mẽ, sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của các quốc gia trên thế giới; tác động đến nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Với sự tổng hòa, kế thừa và sáng tạo một cách hoàn hảo khi kết hợp các công nghệ lại với nhau, để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất xuất trên cơ sở tối ưu hóa mọi hoạt động của con người và máy móc, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học với những đặc trưng gắn liền với những đột phá chưa từng có về công nghệ, liên quan đến kết nối Internet vạn vật, điện toán đám mây, công nghệ in 3D, công nghệ cảm biến, thực tế ảo…đã làm cho giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của cuộc Cách mạng công nghiệp này với cạnh tranh về chất lượng nguồn nhân lực, được xác định là cốt lõi, quyết định cơ hội phát triển của mỗi nước.
Để có thể thích ứng, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới cần phải tích cực tìm hướng đi mới, áp dụng chuyển đổi số trong vận hành của toàn hệ thống, điều chỉnh với một thực tế mới nhằm duy trì khoảng cách xã hội; hình thành nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức; thúc đẩy đổi mới giáo dục, cung cấp dịch vụ giáo dục, đào tạo bảo đảm chất lượng, phát triển phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, là đột phá quan trọng hàng đầu, là lực lượng chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Trước bối cảnh đó, để xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, giá trị con người Việt Nam, thì mỗi người dân chúng ta dù không muốn nhưng bắt buộc phải trở thành công dân toàn cầu có đầy đủ các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, trình độ ngoại ngữ, tác phong lao động, kỷ luật lao động…để tạo dựng thế hệ nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao, có tri thức cao, có trình độ cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao….
Từ những bài học kinh nghiệm của phong trào “Bình dân học vụ”, phong trào phát triển theo đường lối quần chúng được đông đảo quần chúng tham gia, dựa vào sức dân là chính để có thêm các điều kiện tổ chức lớp học với chính sách “cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền” đưa đến thành tựu xoá nạn mù chữ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục nước nhà, một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân được xây dựng trên 3 nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng”, giúp cho dân trí được nâng cao, mở lối cho tư tưởng cách mạng thấm nhuần vào quần chúng, nền tảng đầu tiên, căn bản nhất để cách mạng Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trong công cuộc đổi mới đất nước ngày hôm nay một trong những hướng đi đúng đắn được lựa chọn để làm giàu vốn tri thức, lan tỏa mạnh mẽ phong trào học tập trong cả nước, hun đúc ý chí tự cường, nuôi dưỡng ý chí vươn lên sánh vai với các cường quốc, phát huy sức mạnh con người Việt Nam, tạo tiền đề cho đổi mới sáng tạo, chỉ có con đường học tập; người lớn có giáo dục suốt đời, trẻ em có giáo dục phổ cập, giáo dục bắt buộc, việc học tập được tổ chức ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi hình thức, chính quy, không chính quy và phi chính quy. Người người học tập, tự học tập, học thường xuyên, học suốt đời theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới là con đường giúp chúng ta bắt kịp, tiến cùng, bứt phá và vượt lên chính chúng ta và thế giới, là cơ sở quan trọng để xây dựng Việt Nam thành xã hội học tập, xã hội tri thức, hình thành thế hệ công dân có đủ trí tuệ, có chuyên môn, ý thức, thái độ, hành vi tốt.
3.1. Để hiện thực hóa mục tiêu đột phá phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Đổi mới mạnh mẽ tư duy, thống nhất nhận thức về đổi mới giáo dục, đào tạo, chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và lợi ích của học tập suốt đời, là con đường tất yếu để mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng phát triển bền vững, thích ứng với những thay đổi của cuộc sống và xã hội, đáp ứng kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị tạo sự đồng thuận, thống nhất, tin tưởng, ủng hộ của các tầng lớn nhân dân trong việc đẩy mạnh, đa dạng hóa hình thức thông tin, tuyên truyền về mục tiêu, yêu cầu, nội dung của đổi mới giáo dục, đào tạo, đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và xây dựng xã hội học tập. Mỗi tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị và mỗi nhà trường chủ động, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, giáo dục hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng về đổi mới giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Triển khai toàn diện, sâu rộng và hiệu quả phong trào đẩy mạnh học tập suốt đời, đưa văn hóa học tập đến với mỗi gia đình, mỗi dòng họ, gắn với phong trào phổ cập, nâng cao kiến thức số trong cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên và Nhân dân, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ Việt Nam, phát triển vững chắc gia đình học tập, dòng họ học tập, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
3.2. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản, điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực đang cản trở sự phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xây dựng xã hội học tập. Khẩn trương nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về học tập suốt đời, nhằm tạo khung pháp lý hiệu lực, hiệu quả để thực hiện thành công các mục tiêu về đảm bảo cho mọi người nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy cơ hội học tập thường xuyên, học tập suốt đời, tiếp cận công nghệ thông tin, dịch vụ số.
Ban hành Khung năng lực số cho người học với các kỹ năng, kiến thức cần thiết để giúp người học có thể sử dụng công nghệ số hiệu quả trong học tập, trở thành những công dân toàn cầu, làm chủ trong công nghệ, công việc và cuộc sống; có năng lực cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, có cơ hội tiếp cận, khuyến khích phát triển các kỹ năng phù hợp trong bối cảnh số hóa. Đồng thời, đảm bảo tính nhất quán và kết nối, tương thích, khoa học, hiện đại, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và các lĩnh vực có liên quan (đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế..).
3.3. Phát triển trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, đào tạo theo chuẩn quốc tế, chú trọng giáo dục vì sự phát triển bền vững. Xây dựng một số cơ sở giáo dục đại học số, trung tâm đào tạo tiên tiến, đào tạo trực tuyến, phát triển hệ thống giáo dục mở và học tập suốt đời, tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về công nghệ số năng động, sáng tạo, chất lượng cao. Các nhà trường có kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ kỹ thuật và công nghệ then chốt; có các chương trình đào tạo tài năng từ nguồn học sinh, sinh viên để có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật hàng đầu ở các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực trọng yếu hiện nay như: trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế số. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin; áp dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác quản lý, quản trị, điều tra phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, tổ chức các hoạt động giáo dục và phát triển các nền tảng công nghệ số, công nghệ giáo dục, hạ tầng số, viễn thông, internet hiện đạ,i kết nối an toàn bền vững; khai thác nguồn tài nguyên giáo dục mở, kho học liệu số dùng chung. Thúc đẩy hệ sinh thái số trên các lĩnh vực.
Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo giữa các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, các viện nghiên cứu, nhà trường, các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ với các doanh nghiệp để đầu tư, khai thác những công trình khoa học, những thành tựu đột phá trong lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa, giáo dục, lịch sử Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm bản sắc dân tộc, xây dựng các giá trị văn hóa mới, phù hợp với thời đại; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, tự hào dân dộc với tinh thần đam mê tìm tòi cống hiến cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, trình độ đào tạo; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời. Giáo dục phải phục tùng đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, góp phần đào tạo ra được những người lao động mới, có lòng yêu nước nồng nàn, “trung với nước, hiếu với dân”, có đạo đức cách mạng trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, những công dân mới. kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên.
Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, trí thức, nhà khoa học cần tiếp tục nỗ lực thực hiện cho được trách nhiệm, sứ mệnh của mình trong đoạn cách mạng mới, gia tăng mạnh mẽ đóng góp, tham góp, đề xuất, hiến kế cho Đảng, Nhà nước những đột phá phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia như một nguồn cảm hứng, một động năng mới với tâm huyết, trách nhiệm cao đối với sự phát triển của đất nước, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược, đưa nước ta đến năm 2045 là nước phát triển, có thu nhập cao, sánh vai với các cường quốc năm châu. Theo như mong muốn của Tổng Bí thư “các trí thức, nhà khoa học phải là lực lượng nòng cốt để đưa Việt Nam đứng vào nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo; nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các cường quốc công nghệ vào năm 2030…”.
3.4. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động các thiết chế giáo dục trong và ngoài nhà trường, các thiết chế văn hóa, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, xây dựng môi trường học tập thật sự lành mạnh. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa gia đình, nhà trường, xã hội thành một khối đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để mọi người được tiếp cận với tri thức, giáo dục, học tập, học thường xuyên, học suốt đời, phù hợp với năng lực, hoàn cảnh của bản thân, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế.
3.5. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục, đào tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo, tiên tiến trên thế giới. Hợp tác, kết nối, phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm với các tổ chức quốc tế và các nước có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, học tập suốt đời, học tập từ xa, học tập trực tuyến, xây dựng xã hội học tập, đặc biệt là các nước trong cộng đồng ASEAN. Tích cực, chủ động tham gia mạng lưới “Thành phố học tập toàn cầu” (GNLC) do Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) điều hành.
Có cơ chế, chính sách đột phá, đặc thù thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học ở nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ cao, có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực về đầu tư trí tuệ, nguồn lực, giảng dạy, nghiên cứu, làm viêc và sinh sống. Khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam. Tăng cường đưa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ra nước ngoài. Nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, quý trọng hiện tài; nhiều gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư đã coi việc học, xây dựng xã hội học tập là một nét đẹp văn hóa, một truyền thống quý báu cần giữ gìn và phát huy; đội ngũ ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, trí thức, nhà khoa học tâm huyết, yêu nghề, sẵn sàng hy sinh, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức, để cách mạng Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dẫn dắt sự phát triển của xã hội, định hình nên xã hội tương lai. Để thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự học, tạo chuyến biến mạnh mẽ về chất, thực hiện thành công công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo, tạo nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng chuyên môn, kĩ thuật, ứng dụng công nghệ và có khả năng hòa nhập xã hội trở thành công dân toàn cầu sáng tạo, đổi mới và thực hiện mục tiêu cam kết với hòa bình, bảo đảm quyền con người và hướng tới phát triển bền vững, được xác định là hướng đi đúc rút từ bài học kinh nghiệm của phong trào Bình dân học vụ xưa và vận dụng phù hợp với thực tiễn bối cảnh hiện nay, nhất định sẽ giúp chúng ta vững tiến đi vào kinh tế tri thức, tham gia vào Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh (1990). Về vấn đề giáo dục. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990.
Phạm Tất Dong (2012). Khuyến học. NXB Dân trí.
Phạm Tất Dong (chủ biên, 2010). Giáo dục Việt Nam 1945-2010, tập 1. NXB Giáo dục Việt Nam.
Ban Khoa giáo Trung ương (2006). Một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác khoa giáo, giáo dục - đào tạo. NXB Chính trị quốc gia.
Phạm Tất Dong (2017). Đổi mới tư duy giáo dục xây dựng xã hội học tập (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn). NXB Dân trí.
Phạm Tất Dong (2018). Học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, xu thế phát triển tất yếu. NXB Dân trí.
Nguyễn Thị Doan (2023). Xây dựng xã hội học tập trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam. NXB Dân trí.
Lê Thị Mai Hoa (2017). Nhìn lại 10 năm thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Tạp chí Tuyên giáo, số 3.
Lê Thị Mai Hoa (2018). Xây dựng mô hình công dân học tập trong xã hội học tập, đề xuất mô hình công dân học tập ở Việt Nam. Tạp chí Tuyên giáo, số 1.
Lê Thị Mai Hoa (2021). Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương về tự học và học tập suốt đời. Hội đồng lý luận Trung ương.
Lê Thị Mai Hoa (2021). Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương về tự học và học tập suốt đời - vận dụng vào công tác của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Hội thảo Khoa Học Con đường tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh Bài học và liên hệ bản thân, Hội Khuyến học Việt Nam, Hà Nội.
Lê Thị Mai Hoa (2015). Thành tựu công tác phổ cập giáo dục và xóa mù chữ từ phong trào Bình dân học vụ. Trang tin Hội đồng Lý luận Trung ương.
[1] Xem nguyên văn lời kêu gọi Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập IV, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1984, trang 28.
[2] cấp I có 3 lớp (lớp dự bị bổ túc, lớp 1 và lớp 2); cấp II có 3 lớp ( lớp 3, lớp 4, lớp 5). Thới gian học cả toàn bộ chương trình giáo dục bổ túc tối đa là 2 năm.
[3] Trường phổ thông lao động mở cho những học viên là cán bộ (trước hết là cán bộ công nông binh và chiến sỹ thi đua có thể tạm thời thoát ly công tác hay nghề nghiệp).
[4] Xem thêm Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ngày 24/12/1996 về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.
[5] Cuối năm 2000, sau khi tất cả các tỉnh, thành phố công bố đạt chuẩn xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, cả nước còn 18 huyện (chiếm 2,6% số huyện), 235 xã chưa đạt chuẩn (chiếm 2,2% số xã).
[6] Số người từ 15 tuổi trở lên biết chữ vẫn có sự chênh lệch đáng kể giữa nam và nữ, giữa nông thôn và thành thị (ở độ tuổi trên 50 tuổi, tỷ lệ người biết chữ giữa nam và nữ chênh lệch 4,1% (nam 96,1%, nữ 92%); người từ 15 tuổi trở lên biết chữ ở thành thị là 97,3%, ở nông thôn chiếm 92,5% (chênh lệch 4,8%). Sự chênh lệch về số người biết chữ giữa các vùng miền là khá lớn (Vùng đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ người biết chữ cao nhất (97,5%), thấp nhất là vùng miền núi phía Bắc (88,1%). Các địa phương có tỷ lệ người biết chữ cao là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng có tỷ lệ người biết chữ xấp xỉ 98%, thấp nhất là tỉnh Lai Châu tỷ lệ biết chữ là 54,9%). Số người trong độ tuổi lao động mù chữ còn nhiều và tập trung ở những vùng khó khăn (năm 2009 vẫn còn gần 4 triệu người trong độ tuổi lao động mù chữ, tập trung nhiều ở Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long và miền núi phía Bắc. Riêng số người ở Tây Nguyên chưa hoàn thành chương trình tiểu học chiếm 25,7%, Đồng bằng sông Cửu Long là 32,8% dân số của cả vùng. Đáng chú ý là đến năm 2010 số người 15- 35 tuổi chưa biết chữ vẫn còn 592.551 người. Số người trên 36 tuổi cho đến hết tuổi lao động chưa biết chữ là 1.606.073 người.