Thành tích học sinh không ngừng được nâng cao qua các kỳ thi Học sinh giỏi (HSG), kỳ thi Tốt nghiệp THPT.
Chất lượng toàn ngành chuyển biến tích cực
Trong giai đoạn 2021 - 2025, ngành GD&ĐT tỉnh Bắc Kạn đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về GD&ĐT. Tỉnh đã bố trí các nguồn lực đầu tư, tạo điều kiện cho ngành GD&ĐT phát triển với tối đa các nguồn lực cùng sự hỗ trợ, phối hợp, đóng góp vào sự nghiệp GD&ĐT của tỉnh nhà.
Bên cạnh những thuận lợi, trong giai đoạn 2021-2025 ngành GD&ĐT Bắc Kạn cũng phải đối diện với những khó khăn, thử thách chung do đại dịch Covid-19 xảy ra. Trong những năm 2020, 2021 và nửa đầu năm 2022, để ứng phó với dịch bệnh, ngành GD&ĐT Bắc Kạn đã phải chỉ đạo các cơ sở giáo dục tổ chức các hoạt động giáo dục linh hoạt (dạy học trực tiếp, trực tuyến, kết hợp hướng dẫn, giao bài cho học sinh học…) để thích ứng và phù hợp với yêu cầu phòng chống dịch. Tác động của dịch bệnh đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ, chất lượng công tác GD&ĐT của toàn tỉnh.
Trên tinh thần phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, trong 5 năm qua Sở GD&ĐT Bắc Kạn đã tích cực, chủ động tham mưu cho cấp trên, phối hợp với các đơn vị liên quan và chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trong ngành thực hiện công tác GD&ĐT phù hợp với mỗi năm và mỗi giai đoạn.
Từ 2021 đến nay, ngành GD&ĐT đã kịp thời tham mưu, ban hành các Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch của Tỉnh ủy và các Nghị quyết, Quyết định, Kế hoạch của Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh về công tác GD&ĐT. Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, hằng năm Sở GD&ĐT đã chủ động tham mưu, tổ chức thực hiện công tác phát triển GD&ĐT phù hợp với điều kiện thực tiễn, góp phần nâng cao trình độ học vấn, trình độ dân trí của nhân dân, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực của tỉnh nói riêng và của đất nước nói chung.
Công tác GD&ĐT của tỉnh Bắc kạn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cơ bản hoàn thành các mục tiêu của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và Nghị quyết số 15-NQ/TU của Tỉnh ủy đề ra. Việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều kết quả quan trọng; nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò, vị trí của GD&ĐT trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nhiều chuyển biến tích cực.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức; đa số cán bộ, giáo viên có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo hiện nay. Các nhà trường đã tập trung triển khai nhiều phương pháp dạy học tích cực, mô hình đổi mới sáng tạo trong dạy và học theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực người học. Chất lượng giáo dục toàn diện từng bước được nâng cao, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị.
Công tác dạy và học được đổi mới, đầu tư toàn diện.
Tỉnh tiếp tục duy trì đạt Chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục trung học cơ sở và phổ cập xóa mù chữ mức độ 2 (giai đoạn trước đạt mức độ 1). Tỷ lệ tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) bình quân đạt trên 97% (Nghị quyết Đại hội đề ra hằng năm học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt trên 90%). Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ ra lớp đạt 41,61%, trẻ mẫu giáo ra lớp đạt 100%; từ năm học 2020-2021 đến năm học 2023-2024 có 44 giải Học sinh giỏi Quốc gia, đạt vượt chỉ tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã đề ra.
Công tác hướng nghiệp, phân luồng sau Trung học cơ sở (THCS), THPT và sự liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học được quan tâm thực hiện, hàng năm có khoảng 64% học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT, số còn lại vào học tại các cơ sở giáo dục thường xuyên và giáo dục nghề nghiệp. Quy mô, mạng lưới trường, lớp các cấp học phát triển đồng đều và được sắp xếp tinh gọn, phù hợp với điều kiện thực tế.
Năm học 2024 - 2025, toàn tỉnh có 281 trường mầm non (MN), phổ thông (PT), trong đó có: 107 trường MN (106 công lập, 01 tư thục), 64 trường Trung học (TH), 48 trường TH&THCS, 48 trường THCS, 04 trường THCS&THPT, 10 trường THPT. Tổng số điểm trường lẻ còn 399 điểm (MN 236 điểm; TH 163). So với năm học 2020 - 2021, giảm 22 trường (MN giảm 7, TH giảm 14, TH&THCS tăng 10, THCS giảm 11), điểm trường giảm 88 điểm (MN giảm 32, TH giảm 56).
Hệ thống trường nội trú được duy trì, với 07 trường, trong đó cấp THPT có 01 trường, cấp THCS có 06 trường. Quy mô các trường nội trú được tăng lên để đảm bảo quy mô mỗi trường có ít nhất 08 lớp theo quy định. Các trường Phổ thông dân tộc (PTDT) bán trú tiếp tục được duy trì và mở rộng, năm học 2024 - 2025 có 37 trường PTDT bán trú (tăng 14 trường so với năm học 2020 - 2021). Công tác giáo dục dân được quan tâm đầu tư, phát triển, góp phần tăng tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số được học trường nội trú, bán trú, tạo điều kiện cho con, em đồng bào các dân tộc có chỗ ăn, ở nội trú trong trường, yên tâm học tập; học sinh được quản lý, giáo dục và rèn luyện góp phần giảm thiểu tình trạng học sinh bỏ học, duy trì và củng cố kết quả phổ cập giáo dục, tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn của tỉnh.
Hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng xã, phường, thị trấn được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều người tham gia học tập, nhất là lực lượng lao động ở nông thôn và những người có hoàn cảnh khó khăn với phương châm “cần gì học nấy”, “toàn dân học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt đời”.
Đến nay tỉnh Bắc Kạn có 130/281 trường đạt Chuẩn quốc gia.
Cơ sở vật chất trường lớp học tiếp tục được quan tâm đầu tư, nhất là hệ thống trường nội trú, trường bán trú, trường chuyên. Đề án đảm bảo cơ sở vật chất thực hiện Chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông giai đoạn 2021 - 2025 được xây dựng và triển khai. Trong cả giai đoạn kinh phí đầu tư cơ sở vật chất khoảng 1.164 tỷ đồng, đầu tư cho 90 trường học trên địa bàn, trong đó ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho các trường học đạt chuẩn gắn với mục tiêu xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới. Đến thời điểm hiện tại, 100% trường đạt tỷ lệ 01phòng/01 lớp; trong đó, phòng học kiên cố cấp mầm non đạt 74,81% (tăng 9,27% so với năm 2021), cấp tiểu học đạt 62,46% (tăng 9,04% so với năm 2021), cấp trung học đạt 85,68% (tăng 4,4% so với năm 2021); số trường có đủ phòng học bộ môn đạt chuẩn đạt 37,73% (tăng 9,46% so với năm 2021).
Sau 4 năm thực hiện Chương trình GDPT 2018 đối với các lớp 1, 2, 3, 4 cấp tiểu học; lớp 6, 7, 8 cấp THCS và lớp 10, 11 cấp THPT trên địa bàn tỉnh đã đi vào nền nếp; giáo viên đã thực hiện tốt việc tự chủ chương trình, khai thác có hiệu quả sách giáo khoa, nguồn học liệu và các thiết bị, đồ dùng dạy học phù hợp; tích cực ứng dụng CNTT trong dạy học và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh. Học sinh hoàn thành tốt các mục tiêu cần đạt theo quy định của chương trình, phát huy được các phẩm chất, năng lực trong quá trình học tập; không xảy ra những bức xúc, nổi cộm trong việc triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018. Trong tổng số 31 chỉ tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TU đề ra, đến nay có 22 chỉ tiêu đạt và vượt còn 9 chỉ tiêu chưa hoàn thành và đang tiếp tục thực hiện theo lộ trình.
Công tác tuyên truyền đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông, đổi mới sách giáo khoa được cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, kịp thời. Triển khai sâu rộng trong cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, nhân viên, người lao động và tuyên truyền trong nhân dân, qua đó tạo sự đồng thuận, thống nhất cao để triển khai, thực hiện chương trìnhgiáo dục phổ thông, sách giáo khoa mới.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với việc triển khai thực hiện nhiệm vụ hằng năm của các cơ sở giáo dục được tổ chức thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất. Hoạt động thanh tra được đổi mới nội dung, hình thức hoạt động từ thanh tra chuyên môn sang thanh tra công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của lãnh đạo các đơn vị.
Đổi mới, vượt khó, vươn xa
Tiếp tục phát huy những nỗ lực trong thời gian qua, ngành GD&ĐT tỉnh Bắc Kạn đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2030, tỉ lệ, chất lượng các cấp học, đội ngũ nhân sự và học sinh được nâng cao.
Đối với giáo dục mầm non: huy động trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ đạt 35%, mẫu giáo đạt 99% ra lớp, riêng trẻ mẫu giáo 5 tuổi duy trì đạt 100%; duy trì 100% trẻ em 5 tuổi hoàn thành Chương trình giáo dục mầm non. Với giáo dục tiểu học: huy động 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1; 99% trẻ 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học. Giáo dục trung học cơ sở: 100% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào lớp 6; tỷ lệ học sinh được đánh giá kết quả học tập ở mức khá, tốt đạt 55% trở lên. Giáo dục trung học phổ thông: tỷ lệ học sinh được đánh giá kết quả học tập ở mức khá, tốt đạt 50% trở lên; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT hằng năm đạt từ 90% trở lên. Từng bước nâng cao số lượng, chất lượng học sinh đoạt giải quốc gia các môn văn hoá và năng khiếu; phấn đấu giai đoạn 2024-2030 đạt 60 giải quốc gia các môn văn hóa. Còn giáo dục thường xuyên: cần duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, từng bước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3, 4 tuổi; duy trì phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3, phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2 và xóa mù chữ mức độ 2; nâng cao chất lượng công tác xây dựng xã hội học tập.
Bên cạnh đó, toàn tỉnh nói chung cũng như ngành GD&ĐT Bắc Kạn nói riêng tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng các trường đạt Chuẩn quốc gia; phấn đấu toàn tỉnh có trên 80% trường đạt Chuẩn quốc gia. Đảm bảo tỷ lệ 01 phòng học/01 lớp, nhóm lớp; phấn đấu đến năm 2030 tỷ lệ phòng học được kiên cố hoá đạt 100%. Đảm bảo số lượng giáo viên giảng dạy ở các cấp học. Đảm bảo 100% cán bộ quản lý, giáo viên cấp mầm non, tiểu học, THCS đạt chuẩn trình độ được đào tạo trở lên; phấn đấu trên 25% cán bộ quản lý, giáo viên trung học phổ thông đạt trình độ đào tạo trên chuẩn. Đảm bảo 100% cán bộ quản lý, giáo viên đáp ứng tiêu chuẩn trình độ lý luận chính trị trước khi bổ nhiệm.
Theo đó, ngành GD&ĐT tỉnh tiếp tục thực hiện có hiệu quả các văn bản, chỉ thị. Tiếp tục xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, cơ cấu bộ môn; bảo đảm các điều kiện về trình độ chuyên môn. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và quản lý nhà nước, đảm bảo có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vị trí công tác.
Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn hoá học đường, quan tâm giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tiếp tục đổi mới toàn diện mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục; đổi mới hình thức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục theo yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, khắc phục tình trạng quá tải, tăng cường thực hành và gắn với thực tiễn cuộc sống. Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; đa dạng hoá hình thức học tập thông qua hoạt động nhóm, sân khấu hoá, trò chơi, tăng thời gian luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, hoạt động trải nghiệm…
Tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị trường học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại, an toàn, bền vững; triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án đầu tư cho giáo dục; đầu tư xây dựng, bổ sung, từng bước thay thế các phòng học bán kiên cố, xuống cấp, không đảm bảo diện tích; tập trung đầu tư khối công trình phục vụ sinh hoạt cho các trường có học sinh ở bán trú, nhà ăn, nhà bếp, các công trình phụ trợ khác; tiếp tục thực hiện xây dựng trường đạt Chuẩn quốc gia; củng cố, bổ sung cơ sở vật chất, thiết bị cho các trường đã được công nhận trường đạt Chuẩn quốc gia để duy trì đạt chuẩn theo quy định của Bộ GD&ĐT.
Triển khai có hiệu quả các Đề án về công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong GD&ĐT. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong việc dạy học và công tác quản lý.
Tiếp tục triển khai mở rộng cơ sở dữ liệu ngành giáo dục, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm nâng cao tiện ích và hiệu quả cho công tác quản lý giáo dục; đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường thực hiện thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến và bộ phận một cửa, một cửa liên thông, liên thông trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; triển khai học bạ số, xây dựng cơ sở dữ liệu văn bằng, chứng chỉ hướng đến văn bằng số, chứng chỉ số.
Với những nỗ lực không ngừng, kỳ vọng ngành GD&ĐT tỉnh Bắc Kạn sẽ khắc phục được những hạn chế, nâng cao chất lượng và ngày càng vươn xa hơn nữa.
Trịnh Thu